Chủ Nhật, 8 tháng 12, 2013
Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2013
Nhân phẩm - một cách tiếp cận văn hóa
NHÂN PHẨM
một cách tiếp cận văn hóa
BÙI VĂN NAM SƠN – PHAN VĂN THẮNG
Trong thế giới mở, phức tạp, với nhiều nền văn hóa khác nhau
như ngày nay, liệu còn có điều gì thực sự mang tính phổ quát? Đó là câu hỏi có
muôn vàn đáp số tùy thuộc vào vị trí, tầm nhìn, cách tiếp cận của mỗi người, mỗi
ngành khoa học. VHNA đi tìm một câu trả lời từ nhà triết học Bùi Văn Nam Sơn.
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Phan Văn Thắng (PVT): Bài “Chân thắng và chân ga” của ông
(VHNAonline, 10.09.2012) viết mừng sinh nhật lần thứ 80 nhà văn Nguyên Ngọc rất
được người đọc chú ý vì có nhiều nhận thức mới mẻ về mối quan hệ giữa văn hóa
và kinh tế. Một cách ngắn gọn, ông có thể tóm tắt luận điểm của mình?
Bùi Văn Nam Sơn
(BVNS): “Văn hóa là chân thắng, kinh tế là chân ga” là cách ví von rất hay của
nhà văn Nguyên Ngọc về mối quan hệ luôn căng bức giữa việc bảo vệ, phát huy các
giá trị văn hóa, tinh thần với quy luật “tối đa hóa” theo quán tính của hoạt động
kinh tế. Bài viết của tôi không có tham vọng giải quyết vấn đề lớn lao này.
Trái lại, chỉ điểm lại một số cuộc thảo luận hiện nay ở các nước phát triển như
một gợi ý để tiếp tục suy nghĩ. Trong xã hội tiền-hiện đại, hoạt động kinh tế
còn phục tùng bảng giá trị văn hóa cổ truyền. Trong xã hội hiện đại, kinh tế
ngày càng phân ly với văn hóa và trở lại khống chế văn hóa. Xã hội hậu-hiện đại
cho thấy những dấu hiệu đầu tiên của một sự tái hòa nhập, hay, nói một cách
hình tượng: “chân thắng” sẽ được gài sẵn vào “chân ga”! Điều này có cơ may trở
thành hiện thực do sự thay đổi của bản thân cấu trúc kinh tế của “chủ nghĩa tư
bản mới” mang tính mềm dẻo, linh hoạt, kéo theo nhận thức mới mẻ về hiểm họa
sinh thái, về “lao động” và “không lao động” với mô hình mới về sự phồn vinh:
không còn tập trung ở việc chiếm hữu nhiều tiền mà ở việc có thêm nhiều thời
gian để có thể chủ động trong nội dung công việc cũng như hưởng thụ và sáng tạo
văn hóa. Những tiền đề ấy có trở thành hiện thực hay không còn phải chờ thời
gian trả lời.
PVT: Trong bài nói trên, tôi chú ý tới một nhận xét của ông
về một sự đảo lộn quan trọng về ý nghĩa bên trong khái niệm văn hóa, tức quan hệ
giữa văn hóa và văn minh. Nếu trước đây văn minh được hiểu như giá trị vật chất,
và văn hóa mang giá trị tinh thần thì bây giờ “văn minh đại diện cho các giá trị
hiện đại như tính phổ quát, sự tự trị, tính chủ thể, sự tự phê phán và cả sự tự
trào”, còn khái niệm “văn hóa” lại mang tính bảo thủ, tiền-hiện đại, thậm chí “ẩn
chứa nguy cơ: văn hóa trở thành bạo động”. Ông có thể giải thích thêm? Và, xin
hỏi: trong thế giới mở, phức tạp, với nhiều nền văn hóa khác nhau như ngày nay,
liệu còn có điều gì thực sự mang tính phổ quát?
BVNS: Văn hóa, nếu được
hiểu theo nghĩa toàn thủ (integrism), ắt không tránh khỏi mang tính bạo động,
phản lại bản tính khai phóng của văn hóa đích thực. Văn hóa đích thực thì luôn
hướng đến cái phổ quát, nhưng ngày nay quả thật rất khó khăn trong việc đồng
thuận về một bảng giá trị toàn cầu. Những niềm tin tôn giáo, những xác tín
chính trị dù mạnh mẽ đến mấy, cũng khó có thể có giá trị cho mọi người và mọi
nơi. Điều duy nhất còn giữ được “đặc quyền” ấy họa chăng chỉ là giá trị phổ
quát của nhân phẩm và nhân quyền, vì ít ra hầu như không một quốc gia nào dám
ngang nhiên bác bỏ trước công luận quốc tế nếu không muốn bị lên án, thậm chí,
bị trừng phạt. Ngày nay, không một văn kiện đạo lý và pháp lý nào được thừa nhận
rộng rãi hơn bản Tuyên Ngôn phổ quát về nhân quyền của Liên hiệp quốc năm 1948.
Ở đây, không còn đặt vấn đề đồng ý hoặc bác bỏ mà chỉ khác nhau ở chỗ lý giải
“đúng đắn” về Tuyên ngôn phổ quát này.
Vì thế, bản thân việc định hình nhân phẩm và nhân quyền như
là giá trị phổ quát, và nhất là quá trình “lý giải” nó là một trang lịch sử văn
hóa và chính trị đầy “âm thanh và cuồng nộ”. Xin đề nghị dành cuộc trao đổi hôm
nay cho việc thử ôn lại vài nét lớn trong lịch sử bi tráng ấy.
PVT: Vâng, vậy trước hết hãy thử lược qua lịch sử văn hóa của
khái niệm nhân phẩm. “Nhân phẩm” thường được hiểu như thế nào qua lịch sử?
BVNS: Tôi xin giới hạn trong phạm vi lịch sử tư tưởng Tây
phương, bởi nhân phẩm và nhân quyền, theo cách hiểu hiện đại, mặc nhiên được
tôn vinh lẫn bị đả kích như là thành tựu và sản phẩm của Châu Âu và nay được phổ
quát hóa trên phạm vi toàn cầu. Nhìn chung, “nhân phẩm” được hiểu theo hai
cách: thứ nhất, như là đặc tính bẩm sinh của con người, gọi là đặc tính bản chất.
Theo đó, mỗi cá nhân, độc lập với hành vi và hoàn cảnh xã hội, có một nhân phẩm
bẩm sinh, không khác gì có đầu, mình và tứ chi! Cách thứ hai, nhân phẩm là sứ mệnh
do mình tự kiến tạo, theo đó, có được nhân phẩm hay không là tùy thuộc vào lối
sống và cách ứng xử của mỗi người. Theo cách hiểu này, nhân phẩm được xem là
thành tích cá nhân hay là thành tựu xã hội.
Trong lịch sử tư tưởng, hai cách hiểu này thường đi liền với
nhau. Thông qua tư duy và hành động thực hiện sứ mệnh tự kiến tạo, con người mới
chứng tỏ nhân phẩm của mình. Tuy nhiên, cách hiểu thứ hai thường chiếm ưu thế,
trong khi cách hiểu thứ nhất không tránh khỏi tranh cãi. Nhân phẩm có thực sự
là đặc tính bẩm sinh và quy định bản chất của con người?
PVT: Chẳng hạn, người
Hy Lạp và La Mã cổ đại không nghĩ như thế?
BVNS: Vâng, đúng thế,
họ xa lạ với tư tưởng cho rằng hễ ai mang bộ mặt người thì đều có nhân phẩm bẩm
sinh! Nhân phẩm hay phẩm giá con người – dignitas et excellentia – không được
xem là đặc tính bẩm sinh mà là kết quả của cống hiến cá nhân và sự thừa nhận của
xã hội. Về mặt cá nhân, chính cách hành xử đúng mực - tức phù hợp với lý trí và
chế ngự được bản năng, dục vọng - và thái độ “bất động tâm” trước phúc và họa
(theo tinh thần phái Khắc kỷ) mới mang lại phẩm giá. Thêm vào đó là cung cách bề
ngoài (đi đứng, ăn mặc, nói năng…) nữa: không nói quá to, không đi quá nhanh,
lúc nào cũng phải trang nghiêm, điềm
tĩnh… Thêm nữa, không chỉ sự tự chủ nội tâm và sự thể hiện bề ngoài là quan trọng
mà trước hết là sự đánh giá của xã hội. Chính cương vị xã hội, nguồn gốc xuất
thân góp phần quyết định nhân phẩm.
PVT: Sự chuyển biến bắt
đầu từ khi nào?
BVNS: Theo lịch sử
thì người đầu tiên khẳng định nhân phẩm phổ quát chính là Marcus Tullius
Cicero, triết gia và nhà chính trị La Mã (106-43 tr. CN). Trong tác phẩm “Về
hành động hợp nghĩa vụ”, lần đầu tiên nhân phẩm được hiểu đồng thời theo cả hai
nghĩa. Cicero nhìn nhận ai ai cũng có nhân phẩm, và, dựa vào bản tính có lý
trí, họ định hướng cuộc đời mình. Tuy nhiên, quan niệm này không được thừa nhận
rộng rãi cho đến khi xuất hiện Kitô giáo.
PVT: Kitô giáo đặt cơ
sở thần học và siêu hình học cho khái niệm nhân phẩm như thế nào?
BVNS: Nói vắn tắt, phẩm
giá của con người đặt cơ sở trên việc con người được mang hình ảnh của Thiên
Chúa, và, qua đó, tham dự vào lý tính và quyền năng của Thiên Chúa. Là con đẻ
và mang hình cảnh của Thiên Chúa, con người có giá trị tuyệt đối, vượt hơn hẳn
mọi tạo vật, thậm chí, được đặt ở vị trí trung tâm của vũ trụ. Mặt khác, phẩm
giá cao cả của con người thể hiện ở dáng đứng thẳng, có ý chí tự do, có linh hồn
bất tử, nhất là có lý trí để có thể nhận thức được chính mình, nhận thức thế giới
và Thiên Chúa.
Đặc biệt, phẩm giá cao cả còn thể hiện ở việc Thiên Chúa trở
thành người, mang xác thịt để cứu chuộc con người bằng cái chết và sự sống lại.
Tuy nhiên, nhân phẩm - đặc tính bản chất lẫn sứ mệnh kiến tạo - chỉ được chứng
tỏ khi xứng đáng với phẩm giá bẩm sinh ấy, biết kính sợ Thiên Chúa, sống đời đức
hạnh, không để cho dục vọng và đam mê lôi cuốn và thống trị.
PVT: Quan niệm ấy ảnh
hưởng đến thời Cận đại như thế nào?
BVNS: Quan niệm trên ảnh
hưởng suốt thời Trung đại Âu Châu, nhưng bắt đầu có sự chuyển biến sâu sắc từ
thế kỷ 17. Nhân phẩm không còn gắn liền với việc con người mang hình ảnh của
Thiên Chúa và ở vị trí trung tâm của vũ trụ. Chẳng hạn vào thế kỷ 18, Immanuel
Kant chỉ đặt cơ sở cho nhân phẩm từ tự-ý thức, tự do, luân lý và lý tính. Có thể
nói, quan niệm về nhân phẩm đã chuyển từ siêu hình học và thần học sang đạo đức
học và triết học pháp quyền. Một mặt, Kant cho rằng con người là bộ phận của tự
nhiên, nhưng có nhân phẩm vượt lên trên giới tự nhiên. Mọi vật đều có một “giá
cả”, tức mang giá trị bên ngoài, có thể mua bán được. Chỉ riêng con người có
giá trị tự thân, vì thế có thể tự trọng và tôn trọng phẩm giá của người khác, đồng
thời có nghĩa vụ với chính mình, nghĩa là không thể làm nô lệ cho người khác:
ai tự biến mình thành dòi bọ, đừng trách người khác giày xéo mình!
Theo Kant, con người làm chủ bản thân, nhưng không có nghĩa
là sở hữu bản thân và sở hữu người khác. Có năng lực lý tính và ý chí tự do,
con người không phải là phương tiện hay sự vật, do đó, không chỉ đối với người
khác, mà với bản thân cũng không có quyền tự hành hạ, bán mình, kể cả tự sát.
Đây là cách nhìn có nguồn gốc thần học: xúc phạm con người cũng có nghĩa là xúc
phạm Thiên Chúa! Quan niệm về nhân phẩm thời Cận đại chia sẻ nhiều giá trị Kitô
giáo, nhưng bắt đầu mang tính thế tục và chỉ còn dựa vào lý tính và ý chí luân
lý. Nhân phẩm - như là tổng thể của tự do đạo đức gồm đặc tính bản chất và sứ mệnh
tự kiến tạo - trở thành cơ sở chính đáng cho việc đỏi hỏi và thực hiện nhân quyền
trên lĩnh vực pháp lý và chính trị-xã hội.
PVT: Quyền tự nhiên
và nhân quyền quan hệ với nhau ra sao?
BVNS: Do quan niệm
truyền thống về nhân phẩm như là đặc tính bản chất bẩm sinh của con người, con
người có những quyền tự nhiên, bất kể hệ thống pháp luật của nhà nước có đảm bảo
hay không. Nhà nước không tạo ra những quyền này, trái lại chúng là những gì có
sẵn, phải được thể hiện trong Hiến pháp và là thước đo để đánh giá tính chính
đáng của pháp luật. Nhân quyền không chỉ là “tiền-nhà nước” mà còn là “siêu-thực
định”, tức vượt lên trên mọi quy định pháp lý do con người đặt ra. Vì thế, nhân
quyền còn được gọi là những quyền cơ bản. Ngay từ thời cổ đại, Aristoteles đã
phân biệt giữa quyền tự nhiên và pháp luật thực định (do con người tạo ra):
“Quyền tự nhiên có quyền uy ở mọi nơi và không lệ thuộc vào ý kiến của con người,
trong khi đó, luật pháp là do con người xác lập” (Đạo đức học Nicomachus,
1134b). Cicero, trước đó, cũng khẳng định: “Luật pháp đích thực là lý tính đúng
đắn phù hợp với tự nhiên, là luật vĩnh hằng và bất biến cho mọi nước và mọi thời.
(Về nhà nước, 3.3). Xa hơn nữa là Antiphon, biện sĩ cổ Hy Lạp: “Mọi người đều
bình đẳng do bản tính, bất kể là người Hy Lạp hay người dã man, vì tất cả chúng
ta đều hít thở bằng mũi và miệng và ăn bằng tay”!
Do đó, bình đẳng và tự do là nhân quyền và quyền tự nhiên cơ
bản. John Locke (1632-1704) bàn về “sự tự do tự nhiên của con người”, cũng như
J. J. Rousseau (1712-1778): “Xâm phạm tự do cũng là xâm phạm bản thân phẩm chất
người”. Kant cũng khẳng định “quyền tự do bẩm sinh” chính là “quyền tự nhiên”,
thậm chí là quyền tự nhiên tối thượng, từ dó dẫn xuất mọi nhân quyền khác, kể cả
sự bình đẳng.
PVT: Theo quan niệm hiện đại, nhân quyền gồm những quyền
nào?
BVNS: Nhân quyền hiện đại được hiểu như những quyền thế tục,
lý tính, thường được chia làm năm loại:
1. quyền tổ chức đời sống xã hội: tức quyền sống trong một
nhà nước pháp quyền có Hiến pháp dân chủ.
2. quyền tự vệ để bảo đảm an toàn cá nhân: tức quyền tự quyết,
quyền mưu cầu hạnh phúc, bình đẳng trước pháp luật, quyền tự do tín ngưỡng và
thế giới quan, giới hạn quyền lực cưỡng chế của nhà nước.
3. quyền tham dự về chính trị, hay còn gọi là dân quyền. Đó
là các quyền tự do ngôn luận, báo chí và lập hội cùng quyền bầu cử phổ thông.
Chúng áp dụng cho công dân của một xứ sở nên còn gọi là dân quyền quốc gia.
4. quyền an sinh và phúc lợi xã hội: bảo đảm an toàn trước
những nguy cơ cho sự sinh tồn cá nhân như bệnh tật, tai nạn, thất nghiệp, cũng
như bảo vệ những người yếu thế trong xã hội.
5. quyền liên đới và tập thể: như quyền được hưởng những
thành tựu của sự phát triển kinh tế - nhất là ở các nước chậm phát triển - và
môi trường sống trong lành, an toàn.
PVT: Bên cạnh lịch sử
văn hóa, lịch sử chính trị của nhân phẩm và nhân quyền hẳn còn phức tạp hơn nhiều?
BVNS: Thưa, đúng vậy,
vào tháng 6.1776, bang Virginia - thuộc địa Anh - lần đầu tiên ban bố một hiến
pháp với danh mục các nhân quyền. Chỉ ba tuần sau, 13 bang Bắc Mỹ tuyên bố độc
lập với thực dân Anh. Vài năm sau, 1789, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của
Cách mạng Pháp được trịnh trọng ban hành. Cả ba đều dựa vào quyền tự nhiên của
sự tự do và bình đẳng.
Nhưng, chúng không phải từ trên trời rơi xuống! Không xét đến
nguồn gốc triết học, từ rất lâu, ở nước Anh đã có những đạo luật bảo vệ cá nhân
trước quyền lực của nhà nước. Chẳng hạn Magna Charta Libertatum năm 1215 ngăn
ngừa việc bắt bớ, tù đày tùy tiện đối với giới quý tộc. Sau đó, Petition of
Rights năm 1628 và Bill of Rights năm 1689 bảo đảm sự an toàn về pháp lý. Tuy
nhiên, chúng vẫn chưa phải là quy định nhân quyền đúng nghĩa cho mọi người. Phải
chờ đến thế kỷ 18 với hai Tuyên Ngôn của Cách mạng Mỹ và Pháp. Hai Tuyên ngôn lừng
danh này thật ra cũng chỉ mới khẳng định sự giải phóng về chính trị (chống lại
chế độ thực dân Anh và chế độ quân chủ chuyên chế Pháp) chứ vẫn chưa phải là
yêu sách của con người cá nhân như ngày nay. Trong các Tuyên ngôn và Hiến pháp ở
thế kỷ 18 và 19 ở Châu Âu, nhân phẩm chưa đóng vai trò then chốt, dù ai cũng tưởng
rằng nhân phẩm vốn là cơ sở của nhân quyền! Điều này chỉ có được ở thế kỷ 20
khi những luận cứ bảo vệ cho pháp quyền tự nhiên bị lung lay và nhân phẩm thực
sự tiến lên thế chỗ cho nó.
Lý do của việc nhân phẩm được nâng lên thành giá trị pháp lý
tối cao ở thế kỷ 20 thực ra không phải chỉ do sự khủng hoảng của khái niệm
“pháp quyền tự nhiên” cho bằng kinh nghiệm xương máu của hai cuộc thế chiến thảm
khốc và các chế độ cực quyền nửa đầu thế kỷ 20. Nhấn mạnh đến nhân phẩm là để
khẳng định rằng: bất kể hoàn cảnh nào, sinh mệnh và nhân phẩm của từng cá nhân
phải được đặc biệt tôn trọng. Đó chính là bối cảnh ra đời hàng loạt các Tuyên bố
và Công ước nổi tiếng từ nửa sau thế kỷ 20: Hiến Chương Liên hiệp quốc (1945),
Tuyên bố phổ quát về nhân quyền (1948); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị (1966); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
(1966); Hiến Chương những quyền cơ bản của Cộng đồng chung Châu Âu (2000) v.v…
PVT: Nhưng trong lịch sử vẫn có những tiếng nói phê phán
nhân quyền?
BVNS: Vâng, đây là một trang lịch sử phức tạp và dai dẳng,
nhưng ta cần một cái nhìn có phân biệt. Ngay từ thế kỷ 19 đã nổi lên nhiều tiếng
nói phản bác, thường được chia thành hai nhóm: bảo thủ và cấp tiến. Thuộc nhóm
bảo thủ nổi bật là thuyết Darwin xã hội và thuyết vị chủng với Alexander Tille
(1866-1912), August Forel (1848-1931) hay Alfred Grotjahn (1869-1931). Họ bác bỏ
lý tưởng về tự do và bình đẳng, về quyền sống và sự tự quyết nhân danh nguyên tắc
chọn lọc tự nhiên! Thật ra quan niệm này đã có từ thời cổ đại với nhà biện sĩ
Gorgias khi cho rằng kẻ mạnh là tốt, kẻ yếu là xấu xa! Thế nhưng, quan niệm này
đã bị chính nhà nghiên cứu tự nhiên Thomas Henry Huxley (1825-1895) bác bỏ: sự
tiến bộ đạo đức của xã hội không phải là mô phỏng giới tự nhiên mà cải biến và,
nếu cần, đi ngược lại tự nhiên!
Không liên quan đến thuyết Darwin xã hội, cuối thế kỷ 19 và
đầu thế kỷ 20, hai giáo hội lớn của Kitô giáo (Công giáo và Tin lành) cũng có
phần nghi ngại đối với các quyền tự do và quyền chính trị. Mặc dù ý niệm về
nhân phẩm bắt nguồn từ Kitô giáo cũng như từ truyền thống nhân bản Tây phương,
sự e ngại của giáo hội chủ yếu xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích và quyền uy trước
sự đe dọa của việc phê phán định chế khởi phát từ thời Cách mạng Pháp. Nhưng, đến
năm 1963, Giáo hoàng Johannes XXIII đã chính thức thừa nhận những nhân quyền cơ
bản, và đến năm 1965 ban hành tuyên bố “Nhân phẩm con người” (Dignitatis
humanae) nhân Công đồng Vatican II. Ngày nay, các giáo hội Kitô giáo không chỉ
thừa nhận mà còn dấn thân mạnh mẽ trong lĩnh vực này.
Phái cấp tiến nổi bật là nhận định phê phán của K. Marx
(1818-1883) trong “Về vấn đề Do Thái” (1844) chung quanh khả năng lừa mị của
khái niệm “nhân quyền” mà thực chất là bảo vệ lợi ích của “con người tư sản”
(Bourgeois), ảnh hưởng đến sự bình đẳng xã hội. Ngày nay, ta đều thấy nhân quyền
không chỉ bảo vệ sự tự do của cá nhân và công dân trước nguy cơ lạm dụng quyền
lực nhà nước mà cả trước các hình thức áp bức về kinh tế-xã hội.
Ferdinand de Lassalle, chủ tịch đầu tiên của Công đoàn Đức
quốc, ngay từ 1863 đã đề xướng việc kết hợp giữa nhân phẩm và nhà nước phúc lợi,
và ý tưởng ấy đã được ghi nhận vào điều 151 của Hiến pháp Weimar của nước Đức
vào năm 1919. Nhưng, con đường khá gian nan. Năm 1951, Tòa Án Hiến Pháp CHLB Đức
còn bác bỏ trách nhiệm bảo hộ công dân trước sự túng quẫn về vật chất, và chỉ
chấp nhận việc trợ cấp xã hội từ năm 1966, song hành với sự ra đời Công ước quốc
tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Câu nói nổi tiếng của Hegel: “Lịch
sử thế giới là sự tiến bộ trong ý thức về tự do” hoàn toàn thích hợp đối với
nhân phẩm và nhân quyền!
PVT: Nhân phẩm và
nhân quyền là phổ quát?
BVNS: Có mấy lý lẽ cơ
bản để bảo vệ luận điểm này:
Thứ nhất, việc giới hạn hay thậm chí xóa bỏ các nhân quyền
cơ bản không giúp ích gì mà còn làm hại cho việc khắc phục nghèo đói và thất học.
Đó là lý do ra đời hai Công ước quốc tế quan trọng nói trên. Ba loại nhân quyền
(quyền cá nhân, quyền chính trị và quyền xã hội) đều là công cụ để hình thành một
cuộc sống đầy đủ phẩm giá, và vì thế, có vị trí ngang hàng với nhau.
Thứ hai, quyền cá nhân và quyền tập thể không mâu thuẫn với
nhau. Nhiều quyền tự do cá nhân - như tự do ngôn luận, hội họp và lập hội - tự
chúng là có tính tập thể. Và sau cùng, nguồn gốc Tây phương về nhân phẩm và
nhân quyền không phải là lý do để bác bỏ tính phổ quát của nó. Do phong trào
Khai minh Âu Châu đánh thức và phát triển, nhân phẩm và nhân quyền là một trong
những thành tựu văn hóa vĩ đại nhất của nhân loại, và thật thiệt thòi cho nhân
loại nếu chỉ dành riêng cho khu vực ấy! Tuy nhiên, phải thú nhận rằng, việc khẳng
định tính phổ quát tiền giả định rằng những luận cứ đặt cơ sở cho nó cũng phải
có giá trị phổ quát. Ở đây, có thể còn nhiều vấn đề phải tranh luận, nhưng
chúng không mang tính chính trị cho bằng mang tính thuần túy triết học. Xin
dành lại cho những cuộc trao đổi khác trong tương lai.
PVT: Xin cảm ơn ông về
cuộc nói chuyện lý thú này.
Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2013
Thứ Năm, 14 tháng 11, 2013
Nước mắt Philippines và bài phát biểu khiến thế giới chết lặng
“Nếu không phải chúng ta thì là ai? Nếu không phải bây giờ thì là
bao giờ? Nếu không phải ở đây thì ở đâu?”...Chúng ta có thể chấm dứt sự
điên rồ ấy. Ngay tại đây...

Trưởng đoàn
đàm phán Philiipines tham dự Hội nghị Công ước Khung của LHQ về biến đổi khí
hậu lần thứ 19 (COP 19), ông Yeb Sano đã có bài phát biểu trong phiên khai mạc
hội nghị, kêu gọi hành động khẩn cấp để ngăn chặn một cơn bão tàn khốc khác có
thể ập tới, giống như siêu bão Haiyan ập vào đất nước này hồi cuối tuần.
Ông Sano
cũng đã bất ngờ nói thêm một lời tuyên bố - vốn không được soạn sẵn trước đó -
về việc tuyệt thực trong quá trình diễn ra hội nghị cho đến khi đạt được những
bước tiến có ý nghĩa. Ông nói:
“Để đoàn kết
với đồng bào tôi, những người đang đấu tranh để tìm thức ăn ở nhà và với em
trai tôi, người chưa ăn gì suốt ba ngày qua, với tất cả lòng kính trọng, thưa
ông Chủ tịch, và tôi không hề có ý không tôn trọng sự hiếu khách tử tế của ông,
bây giờ tôi sẽ bắt đầu tình nguyện tuyệt thực vì khí hậu. Điều đó có nghĩa là
tôi sẽ tự nguyện không ăn trong COP này cho đến khi thấy được một kết quả có ý
nghĩa.”.
Trưởng đoàn đàm phán Philiipines COP 19 Yeb Sano
Xin giới
thiệu toàn văn bài phát biểu của ông Sano tại COP 19:
Thưa Ngài Chủ tịch, tôi vinh dự được phát biểu, thay mặt người dân kiên cường của đất nước Cộng hòa Philippines.
Thưa Ngài Chủ tịch, tôi vinh dự được phát biểu, thay mặt người dân kiên cường của đất nước Cộng hòa Philippines.
Đầu tiên,
người dân Philippines và đoàn đại biểu của chúng tôi có mặt ở đây, tham dự Hội
nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu
(COP19) tại Warsaw, xin gửi lời cảm ơn từ đáy lòng tới sự đồng cảm của các bạn
đối với đất nước chúng tôi trong hoàn cảnh khó khăn của cả nước hiện nay.
Người
Philippines: 'Chúng tôi đói lắm'
Giữa thảm
kịch này, đoàn đại biểu Philippines cảm thấy được an ủi bởi lòng hiếu khách
nồng ấm của Ba Lan, người dân nước các bạn đã luôn mỉm cười chào đón chúng tôi
ở bất cứ nơi đâu. Nhân viên khách sạn, người đi đường, tình nguyện viên và nhân
viên ở Sân vận động Quốc gia đều dành cho chúng tôi những lời chia sẻ ấm áp.
Xin cảm ơn Ba Lan.
Người dân
Philippines tuyệt vòng tìm kiếm sự giúp đỡ sau bão Haiyan
Sự chuẩn bị
của các bạn cho COP lần này vô cùng tuyệt vời và chúng tôi thực sự trân trọng
nỗ lực to lớn mà các bạn đã dành cho việc chuẩn bị cho kỳ họp quan trọng này.
Chúng tôi
cũng cảm ơn tất cả các bạn, những người bạn và đồng nghiệp ở trong khán phòng
này và từ khắp mọi miền trên thế giới vì các bạn sát cánh bên chúng tôi trong
thời khắc khó khăn này. Tôi cảm ơn tất cả các quốc gia và chính phủ đã dành
tình đoàn kết và sự hỗ trợ cho Philippines. Tôi cảm ơn những người trẻ có mặt ở
đây và hàng tỷ bạn trẻ trên khắp thế giới đã trước sau như một, ủng hộ đoàn đại
biểu của tôi và dõi theo chúng tôi kiến tạo tương lai của các bạn.
Tôi cảm ơn
xã hội dân sự, cả những người đang làm việc ở cơ sở khi chúng ta đang chạy đua
với thời gian ở những nơi bị ảnh hưởng nặng nề nhất lẫn những người đang ở
Warsaw hối thúc chúng ta về tính cấp bách và khát vọng. Chúng tôi xúc động sâu
sắc trước những hành động đoàn kết đầy nhân văn này. Sự ủng hộ dạt dào ấy chứng
tỏ rằng, là con người, chúng ta đoàn kết; cùng giống loài, chúng ta quan tâm.
Cách đây
chưa đầy 11 tháng, ở Doha, phái đoàn tôi đã kêu gọi thế giới…hãy mở to mắt để
nhìn thẳng vào thực tế khắc nghiệt mà chúng ta đang phải đối mặt…bởi khi đó
chúng tôi đang phải đương đầu với một cơn bão thảm khốc, thảm họa gây thiệt hại
nặng nề nhất trong lịch sử Philippines.
Bởi vậy, gần
một năm sau, chúng tôi không thể tưởng tưởng nổi một tai họa tàn khốc hơn còn
có thể xảy ra. Với sự xoay chuyển tàn nhẫn của số mệnh, đất nước tôi đang bị
thử thách bởi cơn bão địa ngục tên là Siêu bão Haiyan mà các chuyên gia mô tả
là cơn bão mạnh nhất từng được ghi nhận trong suốt lịch sử loài người. Nó mạnh
đến nỗi nếu có cấp 6 thì nó sẽ rơi trọn vào nhóm đó.
Đến thời
khắc này, chúng tôi vẫn không thể chắc chắn về toàn bộ mức độ của sự tàn phá vì
thông tin được cập nhật một cách nhỏ giọt tới khốn khổ bởi điện và viễn thông
đã bị cắt đứt, có thể còn lâu mới được khôi phục. Đánh giá ban đầu cho thấy
Haiyan đã để lại những tổn thất khủng khiếp chưa từng có trong tiền lệ, không
thể hình dung nổi và vô cùng tàn khốc, ảnh hưởng tới 2/3 Philippines, khiến
khoảng một nửa triệu người mất nhà, cảnh tượng gợi nhớ tới hậu quả của sóng
thần đối với vùng đất lớn, lầy lội, đầy bùn, ngập mảnh vỡ vụn và xác người
chết.
Theo ước
tính từ vệ tinh, Cơ quan Khí tượng và Hải dương quốc gia Hoa Kỳ cũng ước tính
rằng Haiyan đã có áp suất tối thiểu khoảng 860 mbar, còn Trung tâm Cảnh báo bão
chung ước tính Haiyan có thể đã đạt tới sức gió 315 km/h và gió giật 378 km/h,
khiến nó trở thành cơn bão mạnh nhất trong lịch sử hiện đại mà chúng ta từng
biết.
Bất chấp
những nỗ lực to lớn mà nước tôi đã chuẩn bị để đối đầu với sự tấn công dữ dội
của cơn bão quái vật này thì bão cũng quá mạnh, và mặc dù Philippines một quốc
gia quen thuộc với bão thì siêu bão Haiyan không giống với bất cứ thứ gì chúng
tôi trải qua trước đây, hay có lẽ là không giống với điều gì mà bất cứ quốc gia
nào từng trải qua.
Hình ảnh sau
cơn bão cũng dần dần từng bước chậm chạp trở nên rõ ràng hơn. Sức tàn phá thật
khủng khiếp. Và như thể điều đó còn chưa đủ, một cơn bão khác đang hình thành
trong vùng nước ấm ở bờ tây Thái Dình Dương. Tôi rùng mình khi nghĩ tới một cơn
bão khác sẽ tấn công chính những nơi mà người dân thậm chí còn chưa thể gượng
sức để đứng dậy nổi.
Với ai vẫn
còn phủ nhận thực tế rằng đó là biến đổi khí hậu, tôi xin thách người đó bước
ra khỏi tháp ngà của mình, rời khỏi chiếc ghế bành êm ấm.
Tôi thách
người đó dám đến các đảo ở Thái Bình Dương, ở Ấn Độ Dương và nhìn mực nước biển
đang dâng lên; đến những vùng đồi núi ở Himalayas và Andes để nhìn các cộng
đồng người đang đương đầu với lũ lụt do băng tan; đến vùng Bắc Cực, nơi các
cộng đồng cố bấu víu vào các đỉnh băng đang bị thu hẹp nhanh chóng; đến các
vùng đồng bằng rộng lớn, vùng sông Hằng, Amazon, sông Nile, nơi sinh kế và sinh
mạng con người đang bị nhấn chìm, tới đồi núi vùng Trung Mỹ, nơi đang phải đối
mặt với những cơn bão hung dự tương tự; tới những đồng cỏ khô châu Phi, nơi
biến đổi khí hậu cũng đang trở thành vấn đề sống còn khi thực phẩm và nước trở
nên khan hiếm. Cũng xin đừng quên những trận bão lớn ở Vịnh Mexico và Duyên hải
miền đông Bắc Mỹ.
Và nếu như
thế vẫn chưa đủ, người đó có lẽ nên đến thăm Philippines luôn bây giờ.
Khoa học đã
cho chúng ta thấy một bức tranh đang trở nên rõ ràng hơn nhiều. Báo cáo của Ban
liên chính phủ về biến đổi khí hậu IPCC về vấn đề này và các sự kiện tàn khốc
đã nhấn mạnh những rủi ro đi liền với thay đổi về cấu trúc và tần suất của các
hiện tượng thời tiết khắc nghiệt. Khoa học cho chúng ta biết rằng thật đơn
giản, biến đổi khí hậu sẽ đồng nghĩa với việc có nhiều những cơn bão nhiệt đới
mạnh hơn. Khi Trái đất ấm lên, và các đại dương cũng vậy. Năng lượng trữ trong
các vùng biển ngoài khơi Philippines sẽ tăng cường độ của các cơn bão và xu
hướng bão trở nên mạnh hơn - điều mà chúng ta thấy bây giờ - sẽ trở thành chuẩn
mới.
Điều đó sẽ
có tác động sâu sắc tới nhiều cộng đồng của chúng ta, nhất là những người phải
vật lộn với thách thức kép từ khủng hoảng phát triển và khủng hoảng biến đổi
khí hậu. Các cơn bão như Yolanda (Haiyan) và tác động của nó là lời cảnh tỉnh
cho cộng đồng quốc tế rằng chúng ta không thể trì hoãn hành động về khí hậu.
Warsaw phải mang đến tham vọng mạnh mẽ và cần phải tập hợp ý chí chính trị để
giải quyết biến đổi khí hậu.
Tại Doha,
chúng ta đã hỏi: “Nếu không phải chúng ta thì là ai? Nếu không phải bây giờ thì
là bao giờ? Nếu không phải ở đây thì ở đâu?” (mượn lời lãnh đạo sinh viên
Philippines Ditto Sarmiento trong thời thiết quân luật) – [Ditto Sarmiento,
1950-1977, chống lại chế độ thiết quân luật của cố Tổng thống Ferdinand Marcos,
bị bỏ tù và chết trong đó – PV]. Những lời ấy có thể đã từng bị bỏ ngoài tai.
Nhưng ở đây, tại Warsaw, chúng ta có lẽ cũng rất cần đặt ra những câu hỏi thẳng
thắn ấy. “Nếu không phải chúng ta thì là ai? Nếu không phải bây giờ thì là bao
giờ? Nếu không phải ở Warsaw thì ở đâu?”
Những gì đất
nước tôi đang trải qua, kết quả của hiện tượng thời tiết khắc nghiệt sự kiện,
thật điên rồ. Khủng hoảng khí hậu là sự điên rồ.
Chúng ta có
thể chấm dứt sự điên rồ ấy. Ngay tại đây, ở Warsaw.
Đây là Hội
nghị các bên lần thứ 19 nhưng chúng ta có lẽ không nên đếm nữa, bởi vì đất nước
tôi không chấp nhận việc chúng ta cần đến COP30 hay COP40 mới giải quyết biến
đổi khí hậu. Và bởi vì mặc dù đã có những thành tựu đáng kể từ khi ra đời Công
ước khung của LHQ về Biến đổi khí hậu, nhưng 20 năm nay chúng ta vẫn không thực
hiện được mục tiêu cao nhất của Công ước.
Bây giờ
chúng ta đang ở trong tình thế phải tự vấn bản thân: liệu chúng có thể đạt được
mục tiêu đặt ra ở Điều 2, tức là ngăn chặn được sự can thiệp nguy hiểm của con
người đối với hệ thống khí hậu, hay không? Khi không hoàn thành được mục tiêu
của Công ước, chúng ta có lẽ đã phê chuẩn cho sự diệt vong của những nước dễ bị
tổn thương.
Và nếu chúng
ta không hoàn thành được mục tiêu của Công ước, chúng ta phải đối diện với vấn
đề mất mát và thiệt hại. Mất mát và thiệt hại từ biến đổi khí hậu là vấn đề
thực tiễn hiện nay trên toàn thế giới. Các mục tiêu giảm phát thải của các nước
phát triển đang thấp ở mức nguy hiểm và phải được nâng lên ngay lập tức, nhưng
cho dù họ tuân thủ yêu cầu giảm 40 - 50% xuống dưới mức năm 1990, chúng ta vẫn
còn đó vấn đề biến đổi khí hậu và vẫn sẽ cần phải giải quyết sự mất mát và
thiệt hại.
Chúng ta
đang ở thời điểm quan trọng và vấn đề là, kể cả mức giảm thiểu phát thải tham
vọng nhất ở các nước phát triển – những nước lẽ ra phải dẫn đầu cuộc chiến biến
đổi khí hậu hai thập niên qua – vẫn sẽ không đủ để đẩy lùi cuộc khủng hoảng.
Bây giờ đã
là quá muộn, quá muộn khi nói tới việc thế giới có thể trông chờ Điều 1 để giải
quyết khủng hoảng khí hậu. Chúng ta đã bước vào giai đoạn mới đòi hỏi sự đoàn
kết toàn cầu nhằm chiến đấu với biến đổi khí hậu và bảo đảm rằng việc theo đuổi
sự phát triển con người bền vững được xếp hàng đầu trong các nỗ lực của cộng
đồng quốc tế. Đó là lý do tại sao các phương thức thực thi điều này ở các nước
đang phát triển trở nên quan trọng hơn nhiều.
Chính
Maurice Strong - Tổng thư ký của Hội nghị LHQ về Môi trường và Phát triển, Hội
nghị thượng đỉnh Trái Đất tại Rio de Janeiro 1992 – đã nói rằng “Lịch sử nhắc
chúng ta nhớ rằng điều không thể diễn ra hôm nay có thể sẽ trở thành điều tất
yếu vào ngày mai”.
Chúng ta
không thể ngồi và nhìn một cách vô vọng vào sự bế tắc về khí hậu quốc tế này.
Giờ là lúc hành động. Chúng ta cần có lộ trình khẩn cấp về khí hậu.
Tôi phát
biểu thay cho đoàn đại biểu của tôi. Nhưng hơn cả vậy, tôi nói thay cho vô số
những người không còn có thể tự nói cho chính họ vì đã mất mạng trong cơn bão.
Tôi cũng nói cho những ai mất cha mẹ bởi thảm kịch này. Tôi nói cho những người
đang chạy đua với thời gian để cứu người sống sót và để giảm nhẹ nỗi đau cho
những người bị ảnh hưởng bởi thảm họa.
Chúng ta có
thể hành động quyết liệt bây giờ để đảm bảo rằng có thể ngăn chặn được một
tương lai, khi mà siêu bão trở thành chuyện thường. Bởi vì với tư cách là một
quốc gia, chúng tôi không chấp nhận một tương lai, khi mà siêu bão kiểu Haiyan
trở thành thực tiễn cuộc sống. Chúng tôi không chấp nhận việc chạy khỏi bão tố,
sơ tán gia đình, chịu đựng sự tàn phá và đau khổ, đếm người chết trở thành đời
thường. Đơn giản là chúng tôi không chấp nhận.
Chúng ta
phải thôi gọi những sự kiện như vậy là tai họa tự nhiên. Chẳng tự nhiên chút
nào khi người dân phải tiếp tục vật lộn để xóa nghèo và phát triển để rồi bị
quật ngã bởi sự tấn công dữ dội của một cơn bão mà giờ đây được coi là cơn bão
mạnh nhất từng ập vào đất liền. Không tự nhiên chút nào khi khoa học đã cho
chúng ta biết sự ấm lên toàn cầu sẽ gây ra nhiều cơn bão mạnh hơn. Không tự
nhiên chút nào khi loài người đã thay đổi khí hậu một cách sâu sắc.
Tai họa
chẳng bao giờ là tự nhiên. Chúng là sự kết hợp của các yếu tố chứ không chỉ đơn
thuần mang tính tự nhiên. Chúng là sự tích tụ của việc liên tiếp vượt qua các
ngưỡng kinh tế, xã hội và môi trường. Hầu hết các tai họa đều là kết quả của
bất bình đẳng và những người nghèo nhất thế giới phải chịu rủi ro nhiều nhất vì
họ dễ bị tổn thương và vì qua nhiều thập niên phát triển không bình thường mà
tôi phải nhấn mạnh rằng nó có liên quan tới kiểu theo đuổi tăng trưởng kinh tế
đang thống trị thế giới; đây cũng là kiểu theo đuổi cái gọi là tăng trưởng kinh
tế và tiêu dùng không bền vững đã làm biến đổi hệ thống khí hậu.
Bây giờ, nếu các vị cho phép, tôi xin nói ở khía cạnh cá nhân hơn.
Bây giờ, nếu các vị cho phép, tôi xin nói ở khía cạnh cá nhân hơn.
Siêu bão
Haiyan đã đổ vào quê hương tôi và sức tàn phá của nó đã gây choáng váng. Tôi
không có từ nào để nói về những hình ảnh mà chúng ta nhìn thấy trên các bản
tin. Tôi không có từ nào để mô tả cảm giác của mình về những mất mát và thiệt
hại mà chúng tôi chịu từ biến cố lớn này.
Đến giờ này,
tôi đau khổ khi chờ tin về tính mệnh của người thân tôi. Điều tiếp cho tôi thêm
sức mạnh và sự an ủi là khi em trai tôi liên lạc được với chúng tôi để báo là
cậu đã sống sót sau đợt tấn công dữ dội. Hai ngày qua, cậu đã thu thi thể người
bằng đôi bàn tay của mình. Cậu ấy đói và kiệt sức vì thực phẩm chưa thể đến
được với những nơi bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Chúng tôi
kêu gọi COP hãy theo đuổi việc này cho đến khi có kết quả ý nghĩa nhất. Cho đến
khi đạt được những cam kết vững chắc nhằm đảm bảo việc huy động các nguồn lực
cho Quỹ Khí hậu Xanh. Cho đến khi hoàn thành lời hứa thành lập một cơ chế về
tổn thất và thiệt hại; cho đến khi đảm bảo có tài chính cho việc áp dụng cơ chế
đó; cho đến khi có các lộ trình cụ thể nhằm đạt được con số 100 tỷ đô la đã cam
kết từ trước; cho đến khi chúng ta nhìn thấy tham vọng thực sự với việc bình ổn
khí nhà kính. Chúng ta phải chi tiêu tiền vào đúng nơi đúng chỗ.
Trong khuôn
khổ Công ước khung LHQ về BĐKH, quá trình này được gọi bằng nhiều tên. Nó được
gọi là một trò hề. Nó được gọi là cuộc tụ họp phát ra lắm khí các-bon của những
kẻ nhiều tham vọng nhưng vô dụng. Nó được gọi bằng nhiều cái tên. Nhưng nó cũng
có tên Dự án cứu hành tinh. Nó được gọi là “cứu ngày mai ngay hôm nay”. Chúng
ta có thể sửa lại điều này. Chúng ta có thể chấm dứt sự điên rồ này. Ngay bây
giờ. Ngay ở đây, ở giữa sân chơi này.
Tôi kêu gọi
các bạn hãy dẫn dắt chúng tôi. Và để Ba Lan mãi được biết đến là nơi chúng ta
thật sự quan tâm tới việc chấm dứt sự điên rồ ấy. Liệu nhân loại có tận dụng
được cơ hội này? Tôi vẫn tin chúng ta có thể.
Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013
Chủ Nhật, 21 tháng 7, 2013
Trái tim ngừng đập vẫn sống khỏe mạnh
Anh Nikolai
Mikhalnichuk, một cư dân thành phố Saratov, Nga vẫn sống khỏe mạnh bình thường
dù trái tim đã "ngủ yên" hơn chục năm nay.
Câu chuyện tưởng như chỉ có trong khoa học viễn tưởng này đã và đang thu hút sự chú ý của giới khoa học nhằm tìm hiểu những khả năng kỳ lạ trong cơ thể người.
Trường hợp
hy hữu
Vì cô vợ Lydia nói muốn ly dị, do quá sốc nên anh Nikolai đột ngột lên cơn đau tim và phải đi cấp cứu. Khi bác sĩ kiểm tra điện tâm đồ, họ ngạc nhiên phát hiện, tim của bệnh nhân Nikolai đã ngừng đập, trong khi máu vẫn tiếp tục được đưa tới tim và các bộ phận khác.
Theo khái niệm y khoa, tim là bộ phận quan trọng trong hệ tuần hoàn của động vật (trong đó có con người), với chức năng "bơm" đều đặn để đẩy máu theo các động mạch và đem dưỡng khí và các chất dinh dưỡng đến toàn bộ cơ thể; hút máu từ tĩnh mạch về tim sau đó đẩy máu đến phổi để trao đổi khí CO2 lấy khí O2. Một người bình thường với trái tim khỏe mạnh là như vậy.
Nếu tim của người không tuân theo quy luật hoạt động trên đồng nghĩa với việc con người sẽ kết thúc ngay sự sống của mình, trừ khi có sự hỗ trợ kịp thời của các biện pháp y học. Nhưng trường hợp của Nikolai lại ngược lại và sự sống sót là phi thường. Các xét nghiệm sau đó tiếp tục cho thấy trái tim của Nikolai trên thực tế đã không hoạt động trong suốt một thời gian dài trước đó. Qua điều tra và lời tự thuật của Nikolai thì trong suốt thời gian đó, anh vẫn khỏe mạnh bình thường, không thấy bất kỳ có một biểu hiện nào bất thường.
Giáo sư Vitali Levitski, thuộc Viện Tim quốc gia Nga, bác sĩ trực tiếp chụp X-quang, cắt lớp cho bệnh nhân Nikolai nhớ lại: "Tôi không sao diễn tả được cảm xúc của mình vào thời điểm đó. Khi soi sâu vào trong ngực Nikolai, chúng tôi cảm nhận một sự mong manh khi đang cố gắng tìm kiếm "cái" đã và đang giúp Nikolai duy trì sự sống".
Giáo sư Vitali Levitski cho biết, trường hợp của Nikolai Mikhalnichuk là người thứ 3 trên thế giới sống khỏe mạnh bình thường với trái tim ngừng đập. Hai người khác, một ở Nhật Bản và một ở Brazil. Giới y khoa từng ghi nhận trường hợp của cậu bé Paul Eicke đã trở lại với cuộc sống sau hơn 3 giờ trái tim đã ngừng đập. Bé đã bị ngã vào bể nước ở nhà ông bà trong nhiều phút, trước khi ông nhìn thấy và kéo bé lên. Ngay lập tức, ông của bé làm động tác hỗ trợ tim và hà hơi thổi ngạt trong thời gian chờ máy bay trực thăng đến (khoảng 10 phút). Các bác sĩ cấp cứu đã tiếp nhận Paul và chuyến bay mất 10 phút nữa để đến bệnh viện. Bác sĩ ra sức hồi sức cho Paul trong nhiều giờ sau đó. Họ chỉ ngừng lại sau 3 giờ 18 phút sau khi bé được mang vào viện, và trái tim của Paul bắt đầu đập một cách chủ động.
Sống không tim là thế nào?
Ngay sau khi đọc kết quả xét nghiệm của bác sĩ, Nikolai hoàn toàn bất ngờ, thậm chí anh còn không tin và yêu cầu làm đi làm lại các xét nghiệm liên tiếp. Kết quả vẫn là một: Quả tim của anh đã ngừng đập. "Khi các bác sĩ nói cho tôi biết về quả tim của mình, tôi đã bị sốc. Tôi tưởng rằng máu sẽ ngừng chảy trong cơ thể mình, và rồi tôi sẽ chết. Nhưng sau một thời gian, tôi quen dần và thậm chí đôi khi còn quên đi mất điều đó", Nikolai chia sẻ.
Từ khi biết chính xác trái tim của mình đã không còn đập, Nikolai tập làm quen dần với cuộc sống của "người không tim". "Thật là kinh ngạc, từ trước đến giờ, mọi người đều nghĩ rằng quả tim duy trì sự sống và nếu quả tim bị hư hại thì cuộc sống sẽ chấm dứt. Nhưng đối với tôi lại không như vậy. Mọi hoạt động vẫn diễn ra bình thường, như một người có đầy đủ cơ quan nội tạng khỏe mạnh khác. Với tôi, không tồn tại khái niệm "chết" = tim ngừng đập. Cuộc sống hàng ngày của tôi là một minh chứng", anh thành thật nói. Trên thực tế, Nikolai vẫn có thể sống khỏe mạnh như người thường trong nhiều năm nữa. Anh vẫn sống, làm việc bình thường. Chỉ có điều anh ấy sẽ không được chơi một số môn thể thao đòi hỏi sự vận động cao, còn mọi sinh hoạt khác, kể cả sinh hoạt tình dục điều độ là hoàn toàn có thể được. Hiện tại, để an toàn hơn cứ mỗi tháng 1 lần, anh lại đến viện tim để được khám sức khỏe, mặc dù trái tim anh coi như đã chết. Điều đáng nói ở đây, mặc dù không còn tim mà vẫn sống khỏe mạnh trong khi Nikolai không hề tìm đến bất kỳ một sự trợ giúp, hỗ trợ nào từ các biện pháp y khoa.
Số liệu thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới cho thấy, khoảng 5% dân số chỉ sống với 1 quả thận, 3,3% có một bên phổi và 1,9% không dạ dày. Khoảng 0,3% nam giới sinh ra mà không có tinh hoàn. Tuy nhiên theo các nhà khoa học, những dị tật này chỉ có thể ảnh hưởng về mặt thẩm mỹ chứ không gây tác động nhiều đến sức khỏe. Họ vẫn có thể có con và có cuộc sống ái ân sung mãn. Minh chứng là trường hợp của chị Anna, một phụ nữ Nga 27 tuổi vẫn mang thai và sinh con, mặc dù hai năm trước cô đã phải trải qua phẫu thuật cắt dạ con. Điều kỳ lạ là cái thai phát triển bình thường trong khoang bụng và Anna sinh con qua phẫu thuật.
Trong những trường hợp đặc biệt như trên, phải chăng cơ thể họ đã và đang được điều khiển bằng hệ thống nào khác mà chúng ta chưa biết.
Vì cô vợ Lydia nói muốn ly dị, do quá sốc nên anh Nikolai đột ngột lên cơn đau tim và phải đi cấp cứu. Khi bác sĩ kiểm tra điện tâm đồ, họ ngạc nhiên phát hiện, tim của bệnh nhân Nikolai đã ngừng đập, trong khi máu vẫn tiếp tục được đưa tới tim và các bộ phận khác.
Theo khái niệm y khoa, tim là bộ phận quan trọng trong hệ tuần hoàn của động vật (trong đó có con người), với chức năng "bơm" đều đặn để đẩy máu theo các động mạch và đem dưỡng khí và các chất dinh dưỡng đến toàn bộ cơ thể; hút máu từ tĩnh mạch về tim sau đó đẩy máu đến phổi để trao đổi khí CO2 lấy khí O2. Một người bình thường với trái tim khỏe mạnh là như vậy.
Nếu tim của người không tuân theo quy luật hoạt động trên đồng nghĩa với việc con người sẽ kết thúc ngay sự sống của mình, trừ khi có sự hỗ trợ kịp thời của các biện pháp y học. Nhưng trường hợp của Nikolai lại ngược lại và sự sống sót là phi thường. Các xét nghiệm sau đó tiếp tục cho thấy trái tim của Nikolai trên thực tế đã không hoạt động trong suốt một thời gian dài trước đó. Qua điều tra và lời tự thuật của Nikolai thì trong suốt thời gian đó, anh vẫn khỏe mạnh bình thường, không thấy bất kỳ có một biểu hiện nào bất thường.
Giáo sư Vitali Levitski, thuộc Viện Tim quốc gia Nga, bác sĩ trực tiếp chụp X-quang, cắt lớp cho bệnh nhân Nikolai nhớ lại: "Tôi không sao diễn tả được cảm xúc của mình vào thời điểm đó. Khi soi sâu vào trong ngực Nikolai, chúng tôi cảm nhận một sự mong manh khi đang cố gắng tìm kiếm "cái" đã và đang giúp Nikolai duy trì sự sống".
Giáo sư Vitali Levitski cho biết, trường hợp của Nikolai Mikhalnichuk là người thứ 3 trên thế giới sống khỏe mạnh bình thường với trái tim ngừng đập. Hai người khác, một ở Nhật Bản và một ở Brazil. Giới y khoa từng ghi nhận trường hợp của cậu bé Paul Eicke đã trở lại với cuộc sống sau hơn 3 giờ trái tim đã ngừng đập. Bé đã bị ngã vào bể nước ở nhà ông bà trong nhiều phút, trước khi ông nhìn thấy và kéo bé lên. Ngay lập tức, ông của bé làm động tác hỗ trợ tim và hà hơi thổi ngạt trong thời gian chờ máy bay trực thăng đến (khoảng 10 phút). Các bác sĩ cấp cứu đã tiếp nhận Paul và chuyến bay mất 10 phút nữa để đến bệnh viện. Bác sĩ ra sức hồi sức cho Paul trong nhiều giờ sau đó. Họ chỉ ngừng lại sau 3 giờ 18 phút sau khi bé được mang vào viện, và trái tim của Paul bắt đầu đập một cách chủ động.
Sống không tim là thế nào?
Ngay sau khi đọc kết quả xét nghiệm của bác sĩ, Nikolai hoàn toàn bất ngờ, thậm chí anh còn không tin và yêu cầu làm đi làm lại các xét nghiệm liên tiếp. Kết quả vẫn là một: Quả tim của anh đã ngừng đập. "Khi các bác sĩ nói cho tôi biết về quả tim của mình, tôi đã bị sốc. Tôi tưởng rằng máu sẽ ngừng chảy trong cơ thể mình, và rồi tôi sẽ chết. Nhưng sau một thời gian, tôi quen dần và thậm chí đôi khi còn quên đi mất điều đó", Nikolai chia sẻ.
Từ khi biết chính xác trái tim của mình đã không còn đập, Nikolai tập làm quen dần với cuộc sống của "người không tim". "Thật là kinh ngạc, từ trước đến giờ, mọi người đều nghĩ rằng quả tim duy trì sự sống và nếu quả tim bị hư hại thì cuộc sống sẽ chấm dứt. Nhưng đối với tôi lại không như vậy. Mọi hoạt động vẫn diễn ra bình thường, như một người có đầy đủ cơ quan nội tạng khỏe mạnh khác. Với tôi, không tồn tại khái niệm "chết" = tim ngừng đập. Cuộc sống hàng ngày của tôi là một minh chứng", anh thành thật nói. Trên thực tế, Nikolai vẫn có thể sống khỏe mạnh như người thường trong nhiều năm nữa. Anh vẫn sống, làm việc bình thường. Chỉ có điều anh ấy sẽ không được chơi một số môn thể thao đòi hỏi sự vận động cao, còn mọi sinh hoạt khác, kể cả sinh hoạt tình dục điều độ là hoàn toàn có thể được. Hiện tại, để an toàn hơn cứ mỗi tháng 1 lần, anh lại đến viện tim để được khám sức khỏe, mặc dù trái tim anh coi như đã chết. Điều đáng nói ở đây, mặc dù không còn tim mà vẫn sống khỏe mạnh trong khi Nikolai không hề tìm đến bất kỳ một sự trợ giúp, hỗ trợ nào từ các biện pháp y khoa.
Số liệu thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới cho thấy, khoảng 5% dân số chỉ sống với 1 quả thận, 3,3% có một bên phổi và 1,9% không dạ dày. Khoảng 0,3% nam giới sinh ra mà không có tinh hoàn. Tuy nhiên theo các nhà khoa học, những dị tật này chỉ có thể ảnh hưởng về mặt thẩm mỹ chứ không gây tác động nhiều đến sức khỏe. Họ vẫn có thể có con và có cuộc sống ái ân sung mãn. Minh chứng là trường hợp của chị Anna, một phụ nữ Nga 27 tuổi vẫn mang thai và sinh con, mặc dù hai năm trước cô đã phải trải qua phẫu thuật cắt dạ con. Điều kỳ lạ là cái thai phát triển bình thường trong khoang bụng và Anna sinh con qua phẫu thuật.
Trong những trường hợp đặc biệt như trên, phải chăng cơ thể họ đã và đang được điều khiển bằng hệ thống nào khác mà chúng ta chưa biết.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)