Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013
Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2013
Gíao hoàng tự tay rửa chân cho tù nhân
Giáo hoàng quỳ xuống rửa chân cho 12 phạm nhân tại Rome
Thứ Tư, 27 tháng 3, 2013
" Chúng ta càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực của chúng ta càng lớn "
độc lập Hoa Kỳ, trong một bức thư
viết ngày 12/6/1815 (năm tham chính cuối cùng của ông), T.Jefferson đã tổng kết
kinh nghiệm hơn bốn chục năm cầm quyền và hoạt động chính trị của ông như sau: "Tôi
hy vọng rằng minh triết của chúng ta sẽ lớn lên cùng với quyền lực của chúng ta
và dạy cho chúng ta rằng chúng ta càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực của
chúng ta càng lớn"
Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2013
Gíao hoàng Francis : Trách nhiệm của chúng ta là yêu thương
TPO- Trong
lễ nhậm chức hôm nay (19/3), Giáo hoàng Francis kêu gọi mọi người sống có trách
nhiệm với nhau và yêu thương người nghèo. Ông có bài thuyết giảng bằng tiếng Ý
trong nền nhạc thánh ca tiếng Hy Lạp.
....Đọc tiếp bài viết tại link sau :
http://www.tienphong.vn/the-gioi/618445/giao-hoang-francis-trach-nhiem-cua-chung-ta-la-yeu-thuong-tpod.html
Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2013
Thứ Năm, 14 tháng 3, 2013
Câu chuyện ngôn ngữ
Abstract: French people say:
“Tout mystère
se trouve dans le langage” (All mystery is in the language). But
is there a language which allows us to discover all mysteries? Do we have
enough languages to completely and perfectly describe the world around? The
following story of language attempts to give an answer (PVHg).
Là một danh hoạ bậc nhất của
thế kỷ 20, Pablo Picasso đồng thời mang dáng dấp của một nhà hiền triết khi ông
nói: “Nghệ thuật là một lời nói dối làm cho chúng ta nhận ra sự thật” (Art is a
lie that enables us to realize the truth). Nhận định này ẩn chứa nhiều tư tưởng
sâu sắc về hội hoạ, nhưng đồng thời cũng gợi ý rằng hội hoạ là một dạng ngôn
ngữ đặc biệt, cùng với các ngôn ngữ khác giúp cho chúng ta tiếp cận tới chân lý
ngày càng sâu sắc hơn.
Ngôn ngữ của con người vô cùng
đa dạng: tiếng nói, chữ viết, hình vẽ, âm nhạc, ký hiệu toán học, mô hình, biểu
đồ, biểu tượng, điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, thậm chí cả sự im lặng hoặc giao tiếp
bằng ngoại cảm,…Tất cả liên kết lại với nhau, tạo nên nền văn minh của nhân
loại. Lịch sử văn minh chính là lịch sử phát triển và tiến hoá của ngôn ngữ.
Chẳng thế mà người Pháp đã kết luận: “Mọi bí mật đều nằm trong ngôn ngữ” (Tout
mystère se trouve dans le langage).
Kết luận trên có một hàm ý rất
sâu xa. Nó làm cho chúng ta liên tưởng tới rất nhiều sự kiện ngôn ngữ thú vị.
Chẳng hạn:
- Sự kiện phát hiện ra “phiến
đá Rosetta”[1] (Rosetta Stone) – phiến đá giúp cho nhà
ngôn ngữ học trứ danh người Pháp Jean François Champollion, năm 1822, giải mã
được chữ tượng hình Ai-cập cổ đại, mở toang cánh cửa bí mật của nền văn minh
sông Nile cho hậu thế khám phá.
- Sự kiện khám phá ra hệ thống
ngôn ngữ Ấn-Âu (Indo-European language) trong thế kỷ 19, giúp cho các nhà khoa
học lịch sử khám phá ra cuộc di cư vĩ đại của người Aryan[2] từ mấy
ngàn năm trước,…
Nhưng ngôn ngữ không chỉ là
chiếc chìa khoá vàng trong việc giải mã các sự kiện lịch sử, văn hoá, mà còn rọi
một ánh sáng vào những khoảng tối của nhận thức luận khoa học hiện đại.
Niels Bohr, một trong những
nhà vật lý lỗi lạc và uyên thâm nhất thế kỷ 20, đã phải thốt lên chua chát:
“Tất cả chúng ta đều bị treo lơ lửng trong ngôn ngữ” (We are all suspended in
language), để mô tả tình trạng mâu thuẫn và bất định khi chúng ta cố mô tả thế
giới lượng tử bằng một thứ ngôn ngữ không tương thích – ngôn ngữ của thế giới
vĩ mô.
Trong toán học, Định lý Bất
toàn (Theorem of Incompleteness) của Kurt Godel cũng giáng một đòn chí tử vào
tham vọng chứng minh tính hoàn hảo của toán học. Godel chỉ ra rằng mọi tham
vọng tìm kiếm một hệ thống lý thuyết hoàn hảo đều rơi vào cãi bẫy của nghịch
lý tự quy chiếu. Để thoát khỏi cái bẫy này, phải tìm đến một thứ siêu
ngôn ngữ – một ngôn ngữ đứng bên ngoài hệ thống lý thuyết đang xem xét.
Nhưng bản thân siêu ngôn ngữ cũng bất toàn, do đó không bao giờ có một hệ thống
lý thuyết nào có thể đạt tới sự hoàn hảo.
Vì thế không có một ngôn ngữ
nào có thể được coi là độc tôn, là “ông hoàng” trên con đường tìm kiếm chân lý.
Chỉ có sự kết hợp nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau, bổ sung cho nhau mới làm nên
một bức tranh phong phú nhất, sát gần với sự thật nhất.
Để tiệm cận tới kết luận đó,
trước hết phải thấy được những “chỗ yếu” của ngôn ngữ. Một trong những “chỗ
yếu” đó là nghịch lý tự quy chiếu.
1. Nghịch lý
tự quy chiếu:
Những ý kiến bầy tỏ, tuyên bố,
phát biểu, trình bầy,… mang tính chất tự phán xét, tự đánh giá về chính bản
thân mình được gọi là những nhận định tự quy chiếu (self-referential
statements). Mọi nhận định tự quy chiếu đều chứa đựng mâu thuẫn logic nội
tại, do đó sẽ dẫn tới nghịch lý được gọi là nghịch lý tự quy
chiếu (self-referential paradoxes) – nghịch lý nẩy sinh khi một hệ thống
tự phán xét về chính bản thân mình.
Thí dụ điển hình là “nghịch lý
Cretan”, hay còn gọi là “nghịch lý kẻ nói dối”, nẩy sinh từ tuyên bố sau đây:
Ta là kẻ nói dối (I am a liar)!
Nếu “ta” là kẻ nói dối, suy ra
“ta” đã nói thật. Nếu “ta” nói thật, suy ra “ta” là kẻ nói dối. Đằng nào cũng
mâu thuẫn – mâu thuẫn là hệ quả logic tất yếu của một hệ tự quy chiếu!
Nghịch lý kẻ nói dối do
Epimenides, một nhà thơ kiêm triết gia người Cretan (người đảo Crete thuộc
Hy Lạp), thế kỷ 7-6 trước công nguyên, tìm ra. Nghịch lý này tồn tại
trong suốt hơn 2500 năm chỉ như một trò chơi logic ngôn ngữ, nhưng đến đầu
thế kỷ 20 nó bất ngờ tìm thấy những người “bạn đồng hành” trong logic
toán học. “Người bạn” nổi tiếng nhất là “nghịch lý Russell” – nghịch lý trong
lý thuyết tập hợp do Bertrand Russell tìm ra, dẫn tới cuộc khủng hoảng chưa
từng có trong nền tảng toán học[3].
Russell vốn nổi tiếng là một
nhà hoạt động xã hội có trái tim nồng nàn, từng đoạt Giải Nobel văn
chương năm 1950, hai lần bị nhà nước Anh cho vào tù vì những hoạt
động chống chiến tranh, nhưng nổi tiếng nhất vì những công trình logic toán,
đặc biệt vì nghịch lý Russell – một cảnh báo đối với lòng “cả tin” xưa nay cho
rằng toán học là một hệ logic tuyệt đối phi mâu thuẫn.
Đây là nghịch lý nghiêm trọng
nhất trong các nghịch lý, vì nó không chỉ làm lung lay lâu đài toán học –
lâu đài xưa này được coi là kiên cố vững chắc nhất trong khoa học – mà còn gợi
ý rằng vũ trụ có thể chứa đựng những mâu thuẫn ngay từ trong bản
chất của nó.
Nếu nghịch
lý Russell chưa đủ mạnh để hạ bệ thói tự phụ trong toán học thì năm 1931, Định
lý Godel ra đời, giáng một đòn chí tử vào tham vọng tìm kiếm một hệ thống toán
học tuyệt đối hoàn hảo (tuyệt đối đầy đủ và phi mâu thuẫn). Hệ thống này được
mệnh danh là “siêu toán học” (metamathematics), vì nó định dùng toán học để
chứng minh tính đầy đủ và phi mâu thuẫn của chính toán học. Nói cách khác, siêu
toán học chính là một hệ tự quy chiếu, và ắt phải dẫn tới mâu thuẫn. Nhưng toán
học không chấp nhận mâu thuẫn, vậy siêu toán học không thể thành công. Tham
vọng tìm kiếm siêu toán học là “bất khả” (impossible) và không tưởng (utopian).
Đó là bài học lớn cho toàn bộ khoa học.
Câu hỏi đặt ra là: Có thể
tránh khỏi nghịch lý tự quy chiếu hay không?
Câu trả lời tuỳ thuộc vào
chỗ có tồn tại một siêu ngôn ngữ (metalanguage) đối với tầng
ngôn ngữ đang sử dụng hay không.
2. Siêu ngôn
ngữ và quy luật cơ bản của nhận thức:
Siêu ngôn ngữ là một ngôn
ngữ dùng để nói về một ngôn ngữ khác. Chẳng hạn, dùng tiếng Việt để
nói về tiếng Anh thì tiếng Việt được coi là một siêu ngôn ngữ của
tiếng Anh. Bất kỳ một ngôn ngữ nào cũng có thể trở thành siêu ngôn
ngữ đối với một ngôn ngữ khác. Siêu ngôn ngữ có thể có nhiều tầng,
nhiều lớp. Thí dụ dùng tiếng Việt để phân tích một tài liệu tiếng
Anh bàn về tiếng Hebrew, thì tiếng Việt sẽ là siêu siêu ngôn ngữ đối
với tiếng Hebrew. Các tầng siêu ngôn ngữ tạo thành một hệ thống thang
bậc siêu ngôn ngữ (hierachy of metalanguages) kéo dài vô hạn.
Từ điển Anh-Việt là một
tài liệu siêu ngôn ngữ, vì nó dùng tiếng Việt để giải thích tiếng
Anh. Đa số người mới học tiếng Anh đều ưa dùng từ điển Anh-Việt thay
vì từ điển Anh-Anh. Điều đó hoàn toàn tự nhiên, vì quy luật cơ bản
của nhận thức chỉ ra rằng nhận thức phải đi từ cái đã biết đến
cái chưa biết.
Người mới học tiếng Anh
sẽ gặp khó khăn lớn nếu sử dụng từ điển Anh-Anh mà không có thêm
bất kỳ một sự giải thích hỗ trợ nào khác (không có bất kỳ một thứ siêu
ngôn ngữ nào khác để phân tích ý nghĩa trong tiếng Anh). Dưới con mắt của
logic nhận thức, từ điển Anh-Anh là một thứ ngôn ngữ tự mình nói về
mình – một dạng nhận thức tự quy chiếu – do đó nó sẽ tạo ra một
cái ngưỡng mà người mới học tiếng Anh không thể vượt qua. Tuy nhiên
có thể vượt qua ngưỡng này bằng cách sử dụng các dạng siêu ngôn ngữ
của tiếng Anh, chẳng hạn như sự giảng giải bổ trợ bằng tiếng Việt
của thầy giáo hoặc bạn bè, hình ảnh minh hoạ, cử chỉ điệu bộ bằng
chân tay, ánh mắt, khoé miệng của người giảng giải, v.v... Tất cả
những cách bổ trợ này đều là những dạng siêu ngôn ngữ tuyệt vời đối
với mọi thứ ngoại ngữ.
Chú ý rằng trẻ em có thể tiếp
thu song ngữ một cách tự nhiên, không dùng ngôn ngữ này như một siêu ngôn ngữ
của ngôn ngữ kia. Những trường hợp này gọi là “người có song ngữ tự nhiên”
(bilingual). Chẳng hạn một em bé Việt Nam sinh ra và lớn lên ở Úc, khi đó cả
tiếng Việt lẫn tiếng Anh đều là ngôn ngữ tự nhiên: tiếng Việt là ngôn ngữ mẹ
đẻ, tiếng Anh là ngôn ngữ bản địa. Trong thực tế tại Úc, tôi đã chứng kiến một em
bé “trilingual”, tức là có 3 ngôn ngữ tự nhiên: tiếng Pháp vì bố là người Bỉ,
tiếng Nhật vì mẹ là người Nhật, tiếng Anh là tiếng bản địa. Nếu có một siêu
ngôn ngữ trong trường hợp này thì đó là cử chỉ, ánh mắt, dấu hiệu, hình ảnh,…
do cha mẹ em hoặc thầy cô giáo, bạn bè ở nhà trường tác động đến em trong khi
nói chuyện với em. Thí dụ mẹ em vừa nói vừa chỉ vào con mèo để em hiểu khái
niệm “con mèo”, thầy cô giáo vừa nói vừa chỉ vào cái “table” để em hiểu khái
niệm “table”. Khi đó hình ảnh con mèo hay cái bàn đều đóng vai trò siêu ngôn
ngữ của ngôn ngữ thông thường.
Alfred Tarski, một nhà toán
học Ba lan xuất sắc, từ lâu đã nhấn mạnh rằng muốn định rõ giới
hạn của các tầng nhận thức, cần phải phân biệt rõ ranh giới giữa
ngôn ngữ với siêu ngôn ngữ. Trong toán học, sự lẫn lộn giữa ngôn ngữ
với siêu ngôn ngữ đã từng là nguyên nhân dẫn tới sai lầm trong định
hướng nghiên cứu và giảng dạy. Chẳng hạn, giữa thế kỷ 20 nổi lên trường phái
Bourbaki, với sự ra đời của hàng loạt công trình đồ sộ viết lại toán bộ toán
học dựa trên cái nền logic và tập hợp. Vào thời ấy, Bourbaki được cả thế giới
ngưỡng mộ và tôn sùng như Euclid của thế kỷ 20. Thực chất đây là sự tiếp tục
chương trình Hilbert, với niềm tin tạo ra siêu toán học, bất chấp Định lý
Godel. Chủ nghĩa Bourbaki dẫn tới hệ quả là sự ra đời của trào lưu Toán học Mới
ở trường phổ thông – một bước thụt lùi nghiêm trọng của nền giáo dục toàn cầu
trong những thập kỷ 1960-1970. Cuối thế kỷ 20, với sự thức tỉnh về ý nghĩa của
Định lý Godel, các nhà toán học đã dần dần từ bỏ chủ nghĩa Bourbaki để trở về
với toán học hiện thực. Ngày nay hầu như không còn ai tiếp tục con đường
Bourbaki nữa. Đáng tiếc là nhiều nhà toán học và giáo dục không ý thức được ý
nghĩa của bài học này.
3. Bài học
của siêu toán học:
Chúng ta đã biết siêu toán học
không tồn tại – ngôn ngữ toán học cũng giống như bất kỳ một dạng ngôn ngữ nào
khác, có những giới hạn không thể vượt qua.
Niels Bohr có lẽ là người hiểu
rõ hơn ai hết về giới hạn của ngôn ngữ khi ông tranh cãi quyết liệt với Albert
Einstein về tính hư ảo và bất định của thế giới lượng tử. Dường như càng cố mô
tả sự vật một cách chính xác thì lại càng rơi vào tình trạng bất định, vì không
bao giờ có thể đạt tới sự mô tả cuối cùng mà không cần có thêm bất kỳ một sự
giải thích nào khác – không bao giờ chúng ta có đủ từ ngữ để mô tả sự vật một
cách tuyệt đối chính xác. Mọi cố gắng chính xác hoá tuyệt đối một khái niệm đều
là bất khả. Nhiều nhà toán học từng nghĩ rằng họ có thể đạt tới một lý lẽ tuyệt
đối chính xác nhờ logic và tập hợp, nhưng các công trình của Russell và Godel
đã chỉ ra rằng đó là một ý nghĩ ngây thơ, ảo tưởng.
Chẳng hạn, hãy thử đưa ra một
định nghĩa cho khái niệm “trò chơi” (game), chúng ta sẽ nhanh chóng thấy rằng
định nghĩa đó không chính xác. Thí dụ Từ điển The Free Dictionary định nghĩa
“game” (trò chơi) là “một hoạt động mang lại sự giải trí và thoải mái” (an
activity providing entertainment or amusement). Ngay lập tức có thể hỏi: nghe
nhạc có thể gọi là một “trò chơi” được không? Vậy xem ra mỗi định nghĩa chỉ có
thể nói lên một khía cạnh nào đó của sự thật mà thôi. Một định nghĩa càng mô tả
được nhiều khía cạnh của sự vật thì càng gần với sự thật hơn, nhưng sẽ không
bao giờ đạt tới chính bản thân sự thật đó. Nói cách khác, bản chất của ngôn ngữ
là hạn chế, khả năng diễn đạt và mô tả sự thật bằng ngôn ngữ là có giới hạn.
Đến đây có thể hiểu vì sao
cuộc tranh cãi về hiện thực lượng tử hoặc cuộc tranh cãi về nền tảng của toán
học rốt cuộc lại quy về vấn đề hạn chế của ngôn ngữ.
Nếu ngôn ngữ không bao giờ đủ
thì cái gì giúp chúng ta nhận chân sự vật?
Đó là trực giác – trực
giác giúp chúng ta cảm nhận được cái thần của sự vật ẩn đằng sau từ ngữ, thay
vì chính bản thân từ ngữ. Trong bản dịch cuốn “Đạo Đức Kinh”[4] của Lão tử, học giả Nguyễn Duy Cần phân
tích: “Học thuyết của Lão tử không phải là thật khó hiểu nếu ta quan niệm nó
bằng trực giác. Sự khó khăn của nó là ở chỗ đem ra mà bày giải… Lão tử há đã
chẳng nói: Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri. Đem nó mà giảng giải,
bằng những danh từ của giới nhị nguyên thì thật là vô cùng hiểm trở … Danh từ,
bất luận để ám chỉ vật gì, đều có cái nghĩa hạn định của nó, cho nên không thể
nào dùng một tiếng gì trong giới nhị nguyên tương đối để trỏ vào cái lẽ tuyệt
đối thường tồn và bất biến”.
Đó là lý do
vì sao các luận thuyết Đông phương cổ đại thường kiệm lời, đòi hỏi người ta
phải vận dụng trực giác để hiểu, trong khi nền văn minh hiện đại lại thiên về
phân tích logic “chẻ hoe sợi tóc”, ngõ hầu tìm ra chân lý cuối cùng, bất chấp
giới hạn của nhận thức. Một trong những điển hình cho tinh thần bất chấp là
Khoa học về trí thông minh nhân tạo (AI-Artificial Intelligence).
Hans Moravec, chuyên gia robot
của Viện Robotics thuộc Đại học Carnegie Mellon, tuyên bố thẳng thừng
rằng đến năm 2050 sẽ ra đời những robot thông minh như con người! Tư
tưởng này kích thích sáng tạo công nghệ, cho ra đời những siêu phẩm ngày càng
kỳ lạ hơn. Nhưng kèm theo những tiến bộ đó là sự hạ thấp giá trị con người,
hạ thấp tính người trong xã hội hiện đại. Hệ quả tiêu cực này xuất phát từ
chính những hiểu biết sai lầm về con người – bản thân việc tuyên bố sẽ chế tạo
ra những sản phẩm thông minh như con người đã nói lên rằng tuyên bố đó không
hiểu gì về con người.
Nếu con người thuần tuý chỉ là
một sinh vật cao cấp nhất trong bậc thang tiến hoá của sinh vật – người là hậu
duệ của khỉ – thì có thể kết luận computer hiện nay đã thông minh hơn con
người, vì năm 1997, máy tính Deep Blue đã đánh thắng vua cờ Garry Kasparov.
Nhưng chính sự kiện động trời này đã thúc đẩy Douglas Hofstadter, một trong
những chuyên gia AI giỏi nhất hiện nay, xác định lại vị trí của con người: “Khi
một hoạt động trí não nào đó đã được chương trình hoá thì người ta sẽ mau chóng
ngừng coi nó như một thành phần chủ yếu của tư duy thực sự”[5].
Thật vậy, chúng ta còn biết
quá ít về bản thân mình, và có lẽ sẽ không bao giờ biết đầy đủ, vậy cớ gì chúng
ta có thể tạo ra những sản phẩm thông minh như chúng ta? Nhận định này dựa trên
quan điểm cho rằng mọi hiểu biết về con người đều là sản phẩm của chính bộ não.
Nói cách khác, mọi nghiên cứu về bộ não đều là những hệ tự quy chiếu, và do đó
sẽ không bao giờ đầy đủ. Nếu hiểu biết về bộ não không đầy đủ thì làm sao có
thể chế tạo ra một sản phẩm giống bộ não? Tham vọng chế tạo ra những sản phẩm
thông minh như con người sẽ càng trở thành điên rồ hơn nếu ta hướng câu chuyện
sang lĩnh vực “nhận thức mềm” – nhận thức văn chương nghệ thuật và khoa học xã
hội.
4. Nhận
thức văn chương, nghệ thuật và khoa học xã hội:
Nếu gọi nhận thức của
khoa học tự nhiên là “nhận thức cứng” thì nhận thức của văn chương,
nghệ thuật và khoa học xã hội là “nhận thức mềm”. Trong nhận thức
mềm chúng ta cũng thường xuyên sử dụng cả ngôn ngữ lẫn siêu ngôn ngữ.
Nhưng dường như sự lẫn lộn giữa ngôn ngữ với siêu ngôn ngữ ở đây nếu
có, cũng chẳng gây nên sự cố gì nghiêm trọng. Không những thế, việc sử
dụng cùng lúc ngôn ngữ với siêu ngôn ngữ còn làm cho nhận thức mềm trở nên
phong phú hơn, “mềm hơn”, kích thích tư duy nhiều hơn. Tại sao vậy ?
Vì nhận thức mềm không áp
dụng suy luận logic máy móc như nhận thức cứng. Nhận thức mềm không gán
cho chân lý các giá trị cứng nhắc là 1 (đúng) và 0 (sai). Khái niệm “đúng/sai”
trong nhận thức mềm biến thiên một cách tương đối trong khoảng từ 0 đến 1. Thậm
chí trong nhận thức mềm, chân lý không thể số hoá. Việc số hoá hình thể phụ nữ
trong các cuộc thi hoa hậu là một việc làm phản nhân văn, phản lại Cái Đẹp.
Không còn gì ấu trĩ hơn chủ trương số hoá Cái Đẹp. Những người tin vào các số
đo để tìm ra tiêu chuẩn của Cái Đẹp là những người không hiểu gì về Cái Đẹp.
Tương tự như dùng các chỉ số IQ để đo trí thông minh là không hiểu gì về trí
thông minh. Cái Đẹp và trí thông minh là những giá trị cao quý và sâu sắc gấp
vạn lần so với những gì có thể số hoá.
Nhận thức mềm có bậc
tự do cao hơn rất nhiều so với nhận thức cứng. Bậc tự do của một
dạng nhận thức nói lên mức độ phóng khoáng của dạng nhận thức đó. Dạng nhận
thức có bậc tự do thấp nhất có lẽ là toán học, bởi ở đó không có chỗ cho sự mập
mờ, đa nghĩa. Tranh Picasso có lẽ có độ phóng khoáng rất cao, cao đến mức hình
ảnh trong tranh của ông méo mó như một “lời nói dối”. Vậy mà cái méo mó ấy lại
giúp chúng ta nhận chân sự thật, nếu chúng ta có trực giác tốt và được giáo dục
tốt để cảm nhận được sự thật ẩn đẳng sau “lời nói dối” ấy.
Không tồn tại một dạng
nhận thức nào có bậc tự do bằng 0. Siêu toán học có tham vọng tìm ra
một hệ logic chặt chẽ đến mức có bậc tự do bằng 0, nhưng Định lý Godel
chứng minh rằng hệ logic đó không tồn tại.
Ngược lại cũng không tồn
tại một dạng nhận thức nào có bậc tự do bằng 1. Hội hoạ hiện đại
có bậc tự do cực kỳ lớn, có thể gần 1 tuỳ ý, nhưng không bao giờ
bằng 1, vì bất kể một ngôn ngữ nào dù phóng khoáng đến mấy cũng không
thể không có những niêm luật hoặc quy tắc tối thiểu.
Mặt khác nhận thức mềm
sử dụng một hệ thống siêu ngôn ngữ rất phong phú. Chẳng hạn nếu nghe
ai đó tuyên bố “Ta là kẻ nói dối” thì nhận thức mềm không bắt bẻ câu
nói đó theo một chu trình logic khép kín của Epimenides, mà sẽ đánh giá
mức độ tin cậy của lời nói thông qua ngữ cảnh, tâm địa của người nói,
vẻ mặt, ánh mắt, cử chỉ bộ dạng của anh ta, v.v., tức là sử dụng
một loạt các siêu ngôn ngữ của ngôn ngữ thông thường để tiếp cận sự thật.
Vì thế sẽ không xuất hiện nghịch lý và có khả năng mô tả sự thật một
cách phong phú nhất.
Khi đọc tác phẩm “Tiếng
Việt, người Việt, văn Việt” của GS Cao Xuân Hạo, một tác phẩm dùng
tiếng Việt để phân tích mổ xẻ tiếng Việt, tức là một tác phẩm tự quy
chiếu, nhưng tôi không thấy một mâu thuẫn nào nẩy sinh, ngược lại lý lẽ
trong đó rất sắc sảo, thú vị và thuyết phục. Lý do vì khi đọc một tác
phẩm văn chương hoặc xã hội học, chúng ta sử dụng mọi liên tưởng, tức là
sử dụng mọi siêu ngôn ngữ có thể có, trong đó trực giác là thứ siêu ngôn ngữ
cao cấp nhất, do đó có thể tóm bắt được cái thần của con chữ, thần của
câu nói, thay vì “dò từng câu đếm từng chữ” theo kiểu logic máy móc như
computer. Nói cách khác khi đối diện với một câu nói, ta phải tóm
bắt ý nghĩa toàn thể của câu nói đó ngay lập tức. Điều này đặc
biệt quan trọng trong việc đọc các tài liệu tiếng Việt, vì bậc tự
do trong tiếng Việt rất cao. Tiếng Việt không tuân thủ các quy tắc ngữ pháp
chặt chẽ như các ngôn ngữ Tây phương. Đặc điểm này cũng biểu lộ rất rõ
trong âm nhạc Việt Nam truyền thống. Âm nhạc truyền thống Việt Nam có
độ “lơi” rất cao. Các nghệ sĩ khi trình diễn phải ăn ý với nhau chủ
yếu bằng cảm xúc ngẫu hứng, thay vì tuân theo những tổng phổ chặt
chẽ như âm nhạc Tây phương. Việc “giao hưởng hoá” âm nhạc truyền thống Việt
Nam một mặt có thể nâng âm nhạc VN truyền thống lên một tầm cao mới, dễ hoà
nhập với dòng chảy văn hoá thế giới hơn, nhưng đồng thời cũng có thể làm giảm
bớt tính truyền thống Việt Nam.
Có lẽ thơ Hồ Xuân Hương là
một loại ngôn ngữ có bậc tự do cao nhất, mặc dù thơ của bà là thơ cổ
điển, tuân thủ các niêm luật chặt chẽ về vần điệu. Bậc tự do này chủ yếu phụ
thuộc vào việc lựa chọn từ ngữ. Hầu như mọi từ ngữ của bà đều đa nghĩa, tạo nên
cái hóm hỉnh trác tuyệt mà không dễ gì một ngôn ngữ nào khác có thể bắt kịp.
Bậc tự do của ngôn ngữ là
cái mà computer không bao giờ theo kịp con người. Đó là điều mà những
chuyên gia AI như Hans Moravec, dù giỏi tính toán đến mấy, cũng không hiểu và
không muốn hiểu. Sẽ là chuyện nực cười nếu chúng ta trông đợi vào một
computer viết văn, một computer sáng tạo nên một Serenade… Chúng ta có thể
thừa nhận computer tài giỏi vì đã đánh thắng vua cờ Kasparov hoặc có thể làm đủ
mọi chuyện kinh thiên động địa khác, nhưng vĩnh viễn computer sẽ chỉ là “một gã
phàm phu tục tử” vì không thể rung động với thơ Hồ Xuân Hương!
Garik Vaïnstein năm 1974 và Garry Kasparov năm 2010
Đó là chỗ khác nhau cơ bản giữa nhận thức mềm
với nhận thức cứng.
Bộ não của con người chứa cả nhận thức mềm lẫn nhận thức
cứng. Nhận thức mang tính người nhiều nhất là nhận thức mềm, thay vì nhận thức
cứng như nền giáo dục hiện nay lầm tưởng. Sự lầm tưởng này vô cùng tai hại, bởi
nó dẫn tới một nền giáo dục thiên về nhồi nhét kiến thức, thay vì đánh thức tâm
trí học trò, và dẫn tới một xã hội thiên về chạy đua sức mạnh vật chất, thay vì
chăm lo đời sống nhân văn.
5. Ngôn ngữ, một sân khấu mở:
Câu chuyện về ngôn ngữ hôm nay là câu chuyện về
giới hạn của nhận thức. Nhận thức có khát vọng là đi đến cùng kỳ lý.
Nhưng ngay từ thế kỷ 18, Immanuel Kant, nhà triết học lỗi lạc người
Đức, đã nói: “Câu trả lời làm dấy lên những câu hỏi mới”. Siêu
toán học muốn đi đến cùng kỳ lý của toán học nhưng đã thất bại.
Lý thuyết về mọi thứ (Theory of Everything) cũng đang muốn đi đến cùng kỳ
lý của vật lý, nhưng Stephen Hawking đã đặt câu hỏi: “Liệu chúng ta có
thể đi bao xa trong việc tìm kiếm sự hiểu biết và tri thức?”. Rồi cũng
chính ông đã trả lời: “Bản thân chúng ta lẫn lý thuyết của chúng ta là một
bộ phận của vũ trụ, vì thế lý thuyết của chúng ta là một hệ tự quy chiếu, do đó
nó sẽ không đầy đủ hoặc mâu thuẫn, hoặc vừa không đầy đủ vừa mâu thuẫn”[6].
Nếu nhìn toàn bộ nền văn minh như một sân khấu vĩ đại
của ngôn ngữ thì sân khấu này luôn luôn mở, vì ngôn ngữ của con người không thể
chấp nhận bất kỳ một trói buộc nào cả, như David Peat đã gợi ý trong cuốn “Từ
xác định tới bất định”[7]:
“…tính xác định của ngôn ngữ học là một trong số
những ảo tưởng của con người đầu thế kỷ 20 …Chúng ta không bao giờ có thể hoàn
toàn tránh khỏi tính mơ hồ nhập nhằng trong khi nói. Chúng ta không thể trói
buộc thế giới vào từ ngữ. Nhưng rồi từ ngữ lại có rất nhiều thứ để cung cấp cho
chúng ta, và cuộc sống của chúng ta sẽ phong phú hơn rất nhiều khi ngôn ngữ
không bị bó vào trong một cái áo dành cho người điên[8]”.
PVHg, Sydney 07.07.2012
[1] Phiến đá cổ do một binh sĩ trong
đoàn quân viễn chinh của Napoléon tại Ai cập tìm thấy năm 1799 tại Rosetta
(Rashid), Ai cập, trên đó được khắc một bản văn bằng 3 thứ chữ: chữ tượng hình
Ai cập cổ đại (hieroglyphic), chữ Ai cập cổ đại dạng giản lược (demotic), chữ
Hy Lạp cổ. Các nhà khoa học đã lao vào giải mã chữ hieroglyphic nhưng thất bại,
phải đợi mãi tới năm 1822 mới thành công, nhờ công lao của Jean Francois
Champollion.
[2] Xem “Lịch sứ ít được biết về
Swastika”, Phạm Việt Hưng, Khoa học & Tổ quốc Tháng 03.2011 và trên mạng: http://vietsciences.free.fr/
; http://viethungpham.wordpress.com/
[3] Xem “Lời sám hối của một nhà toán
học hình thức”, Phạm Việt Hưng, Khoa học & Tổ quốc Tháng 05.2009 và trên
mạng: http://vietsciences.free.fr/
; http://viethungpham.wordpress.com/
[4] “Lão tử, Đạo Đức Kinh”, Thu Giang
Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú, NXB Văn học 2001
[5] Xem loạt bài “Đi tìm bản chất đích
thực của con người”, Phạm Việt Hưng, Khoa học & Tổ quốc từ Tháng 06.2011
đến 09.2011 và trên mạng: http://vietsciences.free.fr/ , http://viethungpham.wordpress.com/
[6] Xem “Về bài giảng của Stephen
Hawking: Godel và sự kết thúc của vật lý”, Phạm Việt Hưng, Khoa học & Tổ
quốc số Tết Nhâm Thìn 2012 và trên mạng: http://vietsciences.free.fr/ ; http://viethungpham.wordpress.com/
[7] From Certainty to Uncertainty, David
Peat, bản dịch “Từ xác định tới bất định” của Phạm Việt Hưng, NXB Tri Thức
2011.
[8] Áo có hai ống tay đủ dài để có thể
trói buộc hai tay lại (chú thích của ND).
©
http://vietsciences.free.fr http://vietsciences.org Phạm Việt Hưng
|
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)