Phê bình
Trần Hoài Anh
|
|
Trong tập thơ Điêu tàn, nhà
thơ Chế Lan Viên đã từng đặt ra một vấn đề mang tính bản thể luận với câu hỏi
chứa đầy tâm thức hiện sinh
Mà phải đâu đã đến ngày tiêu diệt!
Ai bảo giùm: Ta có, có ta không?
Câu hỏi của nhà thơ Chế Lan Viên
ngày ấy mãi mãi là điều tự vấn mà không phải dễ gì tìm thấy câu trả lời trong
cõi nhân gian này. Chính vì thế, không chỉ có Chế Lan Viên, mà còn biết bao
nhà thơ khác đã đặt ra trong thơ mình những câu hỏi có tính triết luận như
một tâm thức hiện sinh về sự hiện hữu của chính mình, trong đó có nhà thơ Cát
Du, một phụ nữ Nam Bộ* vốn không phải là một vùng văn hóa với những con người
mạnh về tư duy tư biện. Vậy mà ở Cát Du, ta lại thấy điều ấy hiện hữu trong
thơ như một giọng điệu riêng.
Ta hãy nghe nhà thơ tự bạch:
Nàng bé tẹo
Tuổi chất cao hơn nàng
Vậy mà
Nàng biết đặt những câu hỏi của nhân loại
Ta từ đâu tới?
Tới để làm gì?
Ta sẽ về đâu?
( Nàng)
Quả thật, cũng như Chế Lan Viên,
những câu hỏi trong thơ Cát Du là những vấn đề mang tính bản thể luận, luôn
tồn tại như ám ảnh của một tâm thức hiện sinh mà tác giả cứ mãi đi tìm như đi
tìm cái Tôi bản thể của mình. Đó là một cái Tôi vừa thực lại
vừa ảo, vừa có lại vừa không, vừa gần gũi lại vừa xa xôi như một thứ ảo giác,
nên khi nhìn vào gương, một chiếc gương cũng được làm bằng ảo giác của mộng
mị vô thường, nhà thơ đã hoài nghi chính sự hiện hữu của mình:
Em đang làm gì?
Soi gương
Soi gương tìm gì?
Tìm em
Em sao?
( Ủa, lạ nào!)
Chính vì vậy, cho dẫu nhà thơ đã hóa thân
thành nhiều cái tôi hiện sinh khác nhau: Có khi giống “nàng Nguyệt Nga mặc
đồ cổ trang và ngồi trên xe ngựa liếc tình với Lục Vân Tiên”. Có khi lại
“thấy mình giống công chức mặc áo cổ cồn và có đeo ve / công chức mặt
nghiêm không hé môi cười”. Có khi lại “thấy mình đang gặt hái trên
cánh đồng lúa / êm ả cò bay”... Nhưng rồi, tất cả những sự hóa thân này
cũng chỉ là hư ảo. Bởi chính em cũng chỉ là ảo ảnh của em, nên những sự hóa
thân này cũng chỉ là sự hóa thân của những ảo ảnh.
Màn nhung khép lại
Thế em đâu rồi?
Không biết
( Ủa!lạ nào!)
Tuy nhiên, chính sự hóa thân này đã tạo nên
bầu khí quyển hiện sinh trong thơ Cát Du. Đó là một thế giới hiện sinh đầy hư
- thực. Thế giới ấy đã đem đến cho người đọc những liên tưởng thú vị, bất ngờ
khi đắm mình trong cõi thơ đầy ma mị của Cát Du, một cõi thơ đầy chất phiêu
bồng vốn là một yếu tính của thơ. Bởi nói như thi sĩ Bùi Giáng “cõi thơ là
cõi bồng phiêu”. Và cõi bồng phiêu trong thơ Cát Du như một ẩn số đầy huyễn
hoặc mà thi nhân cứ mãi đi tìm, như đi tìm bản thể của mình nhưng chẳng bao
giờ có lời giải đáp. Bởi khi “Soi gương chỉ thấy cuộc đời” mà đó chỉ
là “những cuộc đời không em”.
Có thể nói, sự bất lực trong hành trình tìm
kiếm chính mình là một tâm trạng điển hình của tâm thức hiện sinh trong thơ
Cát Du. Câu hỏi tồn tại hay không tồn tại mãi ám ảnh trong suy tư của loài
người dù là phương Đông hay phương Tây. Để rồi, trong hành trình tìm kiếm cái
bản thể ấy, con người có khi lại bắt gặp ảo ảnh của mình, trở thành “kẻ xa
lạ” với chính mình. Và cái điều mâu thuẩn tưởng chừng phi lí ấy lại là một
điều hoàn toàn có lý được biểu hiện sinh động trong tâm thức hiện sinh ở thơ
Cát Du
Em ngắm anh mỗi ngày
Mà sao bỗng lạ?
Những tế bào yêu của ngày hôm qua đã chết
Cuốn đi nụ hôn nồng của em
Đôi môi mới của ngày hôm nay lạnh lùng, thờ ơ
quá thể
Em nhìn thấy người đàn bà hệt em
Trong mắt anh lạ lẫm
Em của ngày qua đâu rồi?
Đâu rồi anh?
Anh của ngày qua đâu rồi?
(Lạ hoắc)
Triết gia Héraclite đã khẳng định: “không ai
có thể tắm hai lần trên cùng dòng sông”. Vì vậy, cũng không có ai sống hai
lần trong một khoảnh khắc của cuộc đời. Mọi việc trong cõi nhân sinh này vẫn
trôi đi lặng lẽ, vẫn cứ tuần hoàn theo quy luật tự nhiên. Và con người không
thể nào thoát khỏi cái qui luật “sinh lão bệnh tử” mà Đức Phật đã chỉ ra. Cái
tâm thức hiện sinh này ta cũng cảm nhận được từ trong thơ của Cát Du.
Người đàn ông nhìn tôi
Cái nhìn lạ hoắc
Cắm vào đêm lạ hoắc
Môi chụm môi lạ hoắc
Cái nồng nàn mới toanh
Lại bắt đầu
(Lạ hoắc)
Để rồi từ sự “bắt đầu”, con người lại hành
trình đến một “kết thúc” trong vòng quay của sự sống và cái chết, của hiện
hữu và hư vô, của hữu hạn và vô hạn của kiếp nhân sinh giữa cõi vô thường. Và
đó cũng là hành trình của tâm thức hiện sinh trong thơ Cát Du.
Sáng nay có người mẹ qua đời
Mặt trời rựng lên rồi tắt
Tôi thấy dòng người như đi về nơi tẩm liệm
Hàng cây bên đường cũng buồn thiu
Gió lặng im
như khóc
Có tiếng nấc chồi non
trong cành gãy
Mẹ ơi!
Mẹ!
( Mẹ ơi !)
Mặt khác, cuộc hành trình của tâm
thức hiện sinh trong thơ Cát Du còn được biểu hiện ở khát vọng nhục cảm tinh
khiết được chưng cất từ sự hiện hữu của hai thực thể CON và NGƯỜI mà Cát Du
không hề lẫn tránh, không cao đạo nhưng cũng không buông tuồng suồng sả trước
những tiếng gọi đầy chất hiện sinh này. Vì thế, những khát vọng nhục cảm
trong thơ Cát Du không rơi vào thế giới của sự tầm thường, không dẫn dụ người
đọc vào những thèm khát bản năng, trái lại nó đưa người đọc vào thế giới của
sự thăng hoa, của những sáng tạo đầy khát vọng hiện sinh
Gương mặt vừa được hôn ngày hôm qua
thức dậy
vẫn còn mơ
Mắt em anh ánh
Môi em nồng nồng
Vòng tay âm ấm
Vẫn còn đâu đây
Thế mà người đã xa khơi
Người mang vòng tay của em đi đâu?
Bỏ mặc em trong cõi người giá lạnh này!
Hãy siết em lần nữa
Siết em lần nữa đi nào
Siết!
(Hãy siết em lần nữa)
Quả thật, tâm thức hiện sinh trong thơ Cát Du
là tiếng gọi thẳm sâu từ cõi vô thức. Đó là một vô thức tiềm ẩn trong ý thức
vô ngôn
Người đàn ông của cỏ
Gặp người đàn bà của cỏ
Xoắn vào nhau
Tung xòe
Quên mất gió đông
(Người đàn ông của cỏ)
Và chính cái tâm thức hiện sinh
này đã trở thành một cảm hứng sáng tạo được thể hiện trong khá nhiều bài thơ
của Cát Du như: Thoát, Mơ, Đen, Nhìn, Va tình, Thắp lửa, Lửa, Trăng lu,
Người đàn bà soi gương, Khiết, Rời khỏi giấc mơ, Rơi… Nó là một phần
không thể thiếu trong thế giới nghệ thuật và tư duy thơ của Cát Du. Nó như
một thứ nhan sắc trong bút pháp thơ của chị để từ đó định hình một phong cách
thơ Cát Du trong dòng chảy của thơ Việt đương đại. Và đây cũng là tiền đề
hình thành cõi thơ Cát Du, cõi thơ của một người phụ nữ mang đầy khát vọng
hiện sinh như một thứ căn cước minh chứng cho sự hiện hữu của mình giữa cuộc
đời. Và đây là một thông điệp đầy tính nhân văn của tâm thức hiện sinh trong
thơ Cát Du.
Có thể nói một điều khá độc đáo
cũng được thể hiện trong tâm thức hiện sinh ở thơ Cát Du đó là sự kết hợp hài
hòa giữa tư tưởng hiện sinh với tư tưởng thiền học qua thế giới nghệ thuật
thơ với những hình tượng thơ đầy hư - thực. Cái cảm thức sắc - không ấy như
một ám ảnh của vô thức và tâm linh đã tạo nên cho thơ Cát Du một giá trị mới
đó là giá trị của sự hợp lưu giữa hai nền triết học Tây - Đông mà ta có thể tìm
thấy trong nhiều bài thơ của Cát Du:
Em ở đâu?
Em ở đâu?
Em ngồi trong hốc mắt
Em ngồi trong hốc mắt làm gì?
Em làm gì?
Em nhìn
Em nhìn gì?
Nhìn em
Em thấy gì?
Chả thấy
Sáng trưng em chả thấy!
Chả thấy!
(Nhìn)
Hay :
Không đánh động gì cả
Chỉ có gió khẽ khàng
Làm
Lá bàng lay, lá bàng lay
Ôi!
Lá vàng sắp rụng
Lá biết
Sự đánh động của gió
Nhẹ nhàng thôi
Nhưng thời gian thở gấp
Lá đi
Lá đi trong chiều
nhẹ tênh
Có gió
Rù rì…
(Rơi)
Và từ trong sự đốn ngộ về tư duy
triết học của chủ nghĩa hiện sinh và thiền học, Cát Du đã nhận ra nỗi đau của
phận người, một nỗi đau luôn đồng hành cùng với sự hiện hữu của con người
trần thế như một tất yếu mà con người không thể phủ nhận.
Là người
Không có nỗi đau sao được
Em không tin đâu!
Không tin
( Cát)
Vì nhận rõ được nỗi đau và sự gới
hạn tất yếu của sự mong manh phận người nên tâm thức hiện sinh trong thơ Cát
Du còn thể hiện ở một thái độ sống tận hiến trong từng sát na của cảm xúc và
đam mê. Và chính xuất phát từ tâm thức hiện sinh này mà sự cảm nhận về tình
yêu trong thơ Cát Du cũng nhuốm màu sắc hiện sinh
Không mùi vị gì cả
Chỉ vòng ôm là thực
Siết chặt là thực
Giãy giụa là thực
…………..
Rơi tõm vào
Cơn cuồng nhiệt
yêu.
(Ám ảnh màu chì)
Có lẽ, vì thế chăng mà thi nhân đã
thú nhận những điều mà người ta cứ mãi che đậy bằng những bài học luân lý đạo
đức đầy giả tạo, tởm lợm đến buồn nôn với những bằng “tiết hạnh khả phong” mà
nhà văn thiên tài Vũ Trọng Phụng đã từng vạch trần và lên án trong tiểu
thuyết Số đỏ nổi tiếng của mình. Điều này đã tạo nên một giá trị riêng
trong thơ Cát Du, giá trị của sự thành thực mang tính NGƯỜI mà không phải ai
cũng dám tự thú!? Phải chăng, đây cũng là tiếng nói từ ý thức về nữ quyền vốn
chưa phải là điều đã được khẳng định trong thơ Việt.
Ta hãy nghe nhà thơ chia sẻ và thú
nhận, một sự thú nhận thật đáng yêu. Bởi vì đó là một sự thú nhận dũng cảm và
thành thật mà nói như Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam: “ Cái khát
vọng cởi trói cho thi ca chỉ là cái khát vọng nói rõ những điều kín nhiệm u
uất, cái khát vọng được thành thực. Một nỗi khát vọng khẩn thiết đến
đau đớn.” (1)
Anh yêu!
Đêm qua có gã trai lạc vào ngôi nhà thiêng của chúng mình
Ngôi nhà em cất giữ tình yêu của anh thật chặt
Vậy mà
Hắn táo tợn
Dám nhìn xoáy vào tình yêu anh bằng cái nhìn
thốc lửa
Làm tình yêu nóng ran
Nồng nàn
Thơm phức
Trời ơi!
Làm sao em cưỡng nổi một cơn giông?
Thôi đành để gió cuốn đi
Cuốn đi.
(Thôi đành để gió cuốn đi)
Thật vậy có thể nói, tâm thức hiện sinh trong
thơ Cát Du không phải là một vấn đề gì mới mẻ và lạ lẫm trong thơ ca hiện đại
Việt Nam. Trước 1975 ta thấy giòng tâm thức hiện sinh ấy đã ngập tràn trong
thơ của Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Vũ Hữu Định, Nguyễn Đức Sơn, Du Tử
Lê, Tô Thùy Yên, Trần Dạ Từ, Cung Trầm Tưởng, Đinh Trầm Ca… với những
câu thơ cũng đầy chất hiện sinh: “ Mười ngón tay sờ soạng giữa hư không /
Đôi mắt đã trũng sâu buồn ảo ảnh” (2) Hay “ Anh sẽ còn chạy mãi dưới
ngàn sao / Tìm ảo ảnh bay trên bờ bụi cát” (3). Và hiện nay cái tâm thức
hiện sinh ấy cũng đang là một dòng chảy trong thơ của các nhà thơ trẻ đương
đại như: Ly Hoàng Ly, Vy Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Nguyệt Phạm, Nguyễn
Hữu Hồng Minh, Lê Thiếu Nhơn, Đồng Chuông Tử, Trần Tuấn, Tuệ Nguyên,
Khánh Phương, Đỗ Doãn Phương…
Sự biểu hiện của tâm thức hiện sinh ở mỗi nhà
thơ không bao giờ giống nhau. Nhưng rõ ràng sự hiện hữu của tâm thức hiện
sinh trong thơ của các nhà thơ hiện đại và đương đại Việt Nam là một thực thể
không thể phủ nhận mà tâm thức hiện sinh trong thơ Cát Du không phải là một
ngoại lệ. Có lẽ đây cũng là một xu hướng cho thấy sự tìm tòi, khám phá trong
hành trình sáng tạo thơ của Cát Du nói riêng và các nhà thơ trẻ Việt Nam nói
chung trong sự nỗ lực để vượt thoát sự sáo mòn công thức và tính đồng phục
của thơ ca hiện đại Việt Nam ở một thời chưa xa cũng như sự cố gắng để khẳng
định cá tính sáng tạo của họ trong nền thơ ca dân tộc.
Vì vậy, dẫu rằng trong thơ Cát Du không phải
không còn những câu thơ chưa đạt đến độ chín của tư duy và chiều sâu của tâm
hồn. Nhưng đó là một tất yếu trong hành trình sáng tạo đầy đau đớn của kiếp
thi nhân. Song điều ấy chỉ là những bóng mờ trong cõi thơ Cát Du, còn phần
sáng trong thơ chị nhìn từ mặt bằng chung của thơ Việt đương đại là đáng ghi nhận.
Và tôi tin rằng, người đọc có thể đồng cảm và
chia sẻ với Cát Du những điều ấy để chỉ còn giữ lại trong tâm cảm của mình ý
vị mặn nồng như một giá trị để chia sẻ với tâm thức hiện sinh trong thơ Cát
Du, một tâm thức hiện sinh được chưng cất từ sự nghiệm sinh của cuộc đời thi
nhân và đã bùng cháy thành ngọn lửa trong thơ và trong lòng người đọc khi đến
với thơ Cát Du.
Hy vọng rằng, từ tâm thức hiện sinh này, Cát
Du sẽ khám phá những chân trời mới trong cõi huyền diệu của thơ ca. Để từ sự
hữu hạn của phận người nhà thơ sẽ đi vào sự vô hạn của nghệ thuật. Bởi nói
như Saint-John Perse “…Thơ đã có từ khi con người ở trong hang đá, thơ vẫn sẽ
có ở thời đại nguyên tử, vì thơ là phần không thể giảm trừ được ở con người”.
Và “thế giới này rốt cuộc chỉ còn lại hai thứ, chỉ hai thứ thôi: Thi ca và
lòng nhân ái… không còn gì khác” Cryian Norwid
Chú thích:
* Cát Du: tên thật Phan Kim Dung sinh và lớn
lên tại tỉnh Bình Dương
(1) Hoài Thanh – Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam,
Nxb. Văn học, 2003, tr.18
(2) Thơ Nguyên Sa, Nxb. Thương Yêu, Sài Gòn,
1975, tr.18
(3) Vọng, Thơ Nguyễn Đức Sơn, Nxb. An Tiêm SG,
1972, tr.6
Gò Vấp, ngày 17/03/2011
|
Thứ Tư, 14 tháng 1, 2015
Tâm thức hiện sinh trong thơ Cát Du
Thứ Năm, 1 tháng 1, 2015
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)