Giới thiệu về tôi

Thứ Bảy, 11 tháng 12, 2010

THIÊN ĐƯỜNG LÀ ĐÂU

Thiên đường là đâu? Con hỏi cha.
Các nhà hiền triết bảo chúng ta thiên đường ở ngoài biên giới của sống và chết, nó không bị lay động bởi nhịp điệu của ngày và đêm, nó không ở nơi trái đất này.
Nhưng nhà thơ biết rằng nỗi khao khát vô tận của thiên đường là thời gian và khoảng không, và nó luôn khao khát được sinh ra trong cát bụi tốt tươi.
Thiên đường ở trong cơ thể ngọt ngào của con, con ơi, ở trong trái tim thổn thức của con.
Biển cả rung trống hân hoan, những bông hoa nhón chân để hôn con. Và thiên đường được sinh ra trong con, ở trong vòng tay của mẹ-cát bụi.

Lover's Gifts XLIV: Where Is Heaven

Where is heaven? you ask me, my child,-the sages tell us it is beyond the limits of birth and death, unswayed by the rhythm of day and night; it is not of the earth.
But your poet knows that its eternal hunger is for time and space, and it strives evermore to be born in the fruitful dust.

Heaven is fulfilled in your sweet body, my child, in your palpitating heart.
The sea is beating its drums in joy, the flowers are a-tiptoe to kiss you. For heaven is born in you, in the arms of the mother- dust.

Tagore


Thứ Sáu, 10 tháng 12, 2010

KHI THƯỢNG ĐẾ ĐỐI THOẠI VỚI TỪNG THỜI ĐAỊ

Hồi mười bảy tuổi, Dostoievski đã viết về Balzac: “Những tính cách của ông ta là tác phẩm của một trí tuệ vũ trụ! Không phải hơi hướng của thời đại, mà cả hàng ngàn năm bằng sự vật lộn của chúng đã xếp đặt một kết cục như vậy trong tâm hồn con người”.Dostoievski nhận xét một thiên tài khác, như tiên đoán nhãn thức, bút pháp của chính mình.
Nhân vật của ông, một tâm hồn thanh niên trong sáng, hào hiệp, quả cảm, có trí thông minh kiệt xuất, mang nặng trong lòng mối ưu tư không chịu nổi về thế sự. Nó thấy rõ mồn một sự bất công xã hội, cảnh người nghèo hèn bị chà đạp, bị tước mọi quyền sống, còn kẻ giàu sang quyền quý thì lộng hành, sa đọa đến mất tính người. Nó căm ghét cái ác ngự trị trong xã hội, nó phẫn nộ nhận thấy mọi người xung quanh âm thầm chịu đựng ách thống trị ấy. Nó quyết tâm vùng dậy chống lại cả thế giới phi nghĩa vì công lí, nhưng hóa ra cái thế giới độc ác ngàn năm mà nó muốn đánh đổ ấy đã gieo vào trong nó từ bao giờ. Con người nổi dậy ấy, với tham vọng làm cứu tinh, làm ân nhân của loài người, trên thực tế chỉ có thể trở thành một đao phủ mới, và ngay từ đầu, nó đã sát hại những con người vô tội, gây bao khổ đau cho những người thân thuộc và hãm hại con người sâu kín và chân chính ở trong chính nó, với ý niệm đạo lí đã ăn sâu vào tiềm thức, với nhu cầu được sống trong tình yêu thương và cảm thông với đồng loại - chúng tôi nói về tiểu thuyết Tội ác và trừng phạt (1865-1866) và nhân vật chính trong đó, Rodion Raskolnikov.
Trong Tội ác và trừng phạt, Dostoievski tập hợp và soi sáng bằng một ánh sáng mới một loạt đề tài ông đã từng đề cập. Trong sáng tác của Dostoievski chưa bao giờ vấn đề phân cực xã hội theo giàu - nghèo lại được đặt ra một cách gay gắt không nhượng bộ như ở đây. Lịch sử gia đình Marmeladov do chính nhân vật này kể cho Raskolnikov ở đầu truyện dưới ngòi bút Dostoievski trở thành một thảm kịch nhân loại điển hình cho thời đại chủ nghĩa tư bản man rợ. Thảm kịch ấy không có lối thoát, và cái kết thúc êm ả của nó trong tiểu thuyết mang tính ngẫu nhiên. Bi kịch ấy được thắt nút chung với bi kịch của gia đình Raskolnikov, chúng rất giống nhau. Cả hai gia đình đều ở trong cảnh cùng quẫn, trong cả hai gia đình người con gái đức hạnh phải hi sinh mình vì người thân.
Raskolnikov không chấp nhận sự hi sinh ấy và y sẽ hành động để chặt đứt cái “nút chết”. Nhà phê bình dân chủ cấp tiến Pisarev sẽ lấy hoàn cảnh bên ngoài để giải thích tội ác của Raskolnikov: đây là một con người bị cuộc sống đẩy đến bước đường cùng, ông viết. Nhưng ông không để ý là tác giả đã liệu tính trước lối giải thích này và đã đưa vào tiểu thuyết một phản biện sắc bén: Razumikhin. Người sinh viên này cũng nghèo khổ như Raskolnikov, nhưng có giết người cướp của đâu, anh ta cần cù nhẫn nại tìm kế sinh nhai, vừa nuôi mình vừa giúp gia đình. Tội ác của Raskolnikov có nguồn gốc tư tưởng. Raskolnikov có nhiều nét tương đồng với nhân vật Bút kí từ nhà hầm. Đây cũng là con người li khai với xã hội loài người để khẳng định độc lập tự do của mình, tự cởi trói mình khỏi những chuẩn mực đạo đức xã hội mà nó cho là sản phẩm của sự yếu đuối, ươn hèn của đại đa số loài người. Nhưng nếu con người “từ nhà hầm” không có lí tưởng và mục đích sống, nên chỉ quanh quẩn trong những phản ứng tiêu cực vụn vặt với cuộc đời, thì Raskolnikov - con người quá khổ điển hình của Dostoievski - từ ý thức về sứ mệnh “siêu nhân” của mình sẽ cho phép mình phạm những tội ác chống nhân loại.
Tội ác của Raskolnikov là tội ác do ý thức hệ, kiểu tội ác này nguy hiểm hơn rất nhiều cho sự sống của muôn người, cho nền văn minh con người so với những tội hình sự - Dostoievski cảnh báo rất rõ nhân loại từ những trang viết hiền minh của mình. Và quả thực, kiểu tội ác do ý thức hệ đã trở thành một hiện tượng khủng khiếp, có quy mô chưa từng thấy, trong lịch sử nhân loại thế kỉ XX.

Vòng nguyệt quế, nó cũng là vòng mận gai trên đầu nhà tiên tri Dostoievski trong con mắt của độc giả thế kỉ XX, là phần thưởng đích đáng cho một cây bút suốt đời bận tâm tha thiết với tương lai - tương lai của đất nước ông và của cả thế giới, tiền đồ của con người và xã hội loài người, quả là những điểm nóng thường trực trong thế giới tinh thần của Dostoievski. Từ mối bận tâm ấy nảy sinh sự nhạy cảm đặc biệt, thể hiện rất rõ trong Tội ác và trừng phạt và tất cả các sáng tác sau này của Dostoievski, đối với những xu hướng tinh thần, những trào lưu tư tưởng hôm nay còn trứng nước, nhưng ngày mai có thể trở thành sức mạnh hiện thực. Bakhtin nói rất đúng trong công trình kinh điển của ông về Dostoievski: “Dostoievski có năng khiếu thần tình nghe thấy cuộc đối thoại của thời đại mình, hoặc đúng hơn, nghe thấy thời đại mình như một cuộc đối thoại vĩ đại. Ông nghe thấy cả những tiếng nói ngự trị trong thời đại, sang sảng và được mọi người thừa nhận, cả những tiếng nói còn non nớt, những ý tưởng chưa phát lộ hết, cả những tư tưởng ngầm, trừ ông ra không ai nghe thấy, cả những tư tưởng chỉ mới chớm nở, những bào thai của những thế giới quan tương lai”.
Nhiều luồng tư tưởng phản nhân đạo mới chỉ phảng phất trong không khí thời đại, mà Dostoievski đã báo trước về những hậu họa khôn lường của chúng. Khi Dostoievski viết Tội ác và trừng phạt, Nietzsche còn ngồi trên ghế sinh viên đại học và chưa hề nghĩ tới cái học thuyết về “siêu nhân” của mình. Sau này, đọc thiên truyện về Raskolnikov, Nietzsche tưởng đã tìm ra bậc tiền bối tinh thần và vội tôn Dostoievski làm thầy, nhưng rồi ông sẽ thấy mình đã ngộ nhận. Trong một bức thư, ông bực tức viết về cái “luân lí của bọn nô lệ” ở Dostoievski, nhưng luân lí ấy mới là luân lí chân chính của loài người, mà Nietzsche, hướng tới một “siêu nhân” có nhiều nét chung với “con dã thú tóc vàng”, không thể hiểu.
Cái luân lí chân chính ấy của loài người, đối thoại và đối âm với luân lí “siêu nhân” của Raskolnikov, có nhiều hiện thân trong thiên tiểu thuyết phức điệu của Dostoievski, song hiện thân sáng ngời nhất, bất tử nhất vẫn là Sonia Marmeladova. Chỉ có một Sonia thánh hạnh với đức khiêm nhường cứng cỏi, với những xác tín ăn vào máu thịt, với trí anh minh của trái tim, với tình yêu hiến dâng không đòi đền đáp mới có thể cải tử hoàn sinh cho tâm hồn Raskolnikov. Sonia là con chiên nhiệt thành của Chúa Kitô, đạo đức và đạo lí của Sonia không phải là của con người tự nhiên, mà do Kitô di huấn - Dostoievski đinh ninh như thế. Chối bỏ và phản lại Kitô, như Raskolnikov làm, là đẩy mình và nhân quần đến sự bại vong và diệt vong. Dostoievski trong Tội ác và trừng phạt và các tác phẩm sau này sẽ kiên trì tìm giải pháp cho mọi vấn đề xã hội và con người, xuất phát từ lí tưởng và học thuyết của Kitô, như là ông hiểu nó. Ta không vội phán xử ông, mà sẽ cố theo dõi sự vận động của tư duy ông.
Một niềm tin sâu kín và thường trực của Dostoievski: “Cái Đẹp sẽ cứu chuộc thế giới!” Cái Đẹp ở đây tất nhiên là cái đẹp của bản thể, hòa hợp và không tách rời cái Chân, cái Thiện, Tình Yêu, Tự Do, Sáng Tạo, Bất Tử - tất cả các giá trị tuyệt đối của sự sống. Dostoievski suốt đời suy nghĩ về bản chất bí ẩn của cái đẹp, vì sao con người cần đến nó. Ông viết trong Nhật kí nhà văn (1873): “Cái đẹp... thể hiện cho con người và loài người những lí tưởng của họ”. Con người và loài người không thể sống không có lí tưởng và khao khát được thấy lí tưởng ấy hiện hình trong cái đẹp.
Trong Lũ người quỷ ám - tác phẩm tối tăm ảm đạm nhất của ông - Dostoievski nói mượn lời một trong những nhân vật chính, nhân vật này đương diễn thuyết, biện luận hăng say trước một cử tọa hết sức thờ ơ với những tư tưởng tâm đắc của y: “Không có người Anh nhân loại sống được, không có nước Đức cũng thế, không có người Nga sống được quá chứ, không có khoa học cũng được, không có bánh mỳ cũng được, chỉ không có cái đẹp là không thể sống được, bởi vì sẽ không còn gì để làm trên đời này nữa. Toàn bộ bí mật là ở đây, toàn bộ lịch sử ở đây”. Cũng nhân vật ấy sẽ nói trước khi chết, giải thích vai trò của cái đẹp - ở đây đồng nhất với cái cao cả - trong lịch sử loài người: “Toàn bộ quy luật của sự tồn tại nhân loại chỉ là để sao cho con người luôn luôn có một cái gì lớn lao vô hạn để tôn thờ. Nếu bị tước đoạt cái lớn lao vô hạn này, con người sẽ không còn muốn sống và sẽ chết trong tuyệt vọng. Cái Vô Hạn và Vô Cùng cũng cần cho con người như cái hành tinh bé nhỏ, nơi nó sống”. Do vị trí thiết yếu vô song ấy trong đời sống con người, cái đẹp, khi nó hiển lộ đầy đủ như là hiện thân của lí tưởng, sẽ phát huy tác dụng cải tử hoàn sinh cho loài người sa đọa lầm lạc, làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt của thế giới đương đắm chìm trong tội lỗi và khổ đau. Cái đẹp sẽ là sức mạnh cứu thế.
Đó là xác tín của Dostoievski. Cùng với những xác tín khác, nó tạo nên một cực rất mạnh và thường trực trong thế giới tinh thần của ông. Cực khác là thực tại, mà trong đó nhà văn đương sống, đương nhận thức nó và khao khát nó đáp ứng những mong đợi của mình. ý đồ của tiểu thuyết Chàng Ngốc hình thành trong thế đối lập hết sức căng thẳng của hai cực ấy.

Công tước Mưskin, hiện thân của cái đẹp tinh thần: một tâm hồn thánh thiện không vẩn đục bụi trần, thương yêu vô điều kiện đồng loại, xả thân vì họ, sẵn sàng làm anh em, làm trợ thủ, làm bạn tâm tình của tất cả mọi người. Nastasia Philippovna, hiện thân của cái đẹp thân thể - tâm hồn: một nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, một cuộc đời khổ đau, một nhân phẩm bị chà đạp nhưng luôn luôn ngưỡng mộ hướng về cái thiện và công lí. Hai hiện thân của cái đẹp ấy sẽ tác động thế nào đến cuộc đời và cuộc đời sẽ tác động thế nào đến họ? Tiểu thuyết Chàng Ngốc mô tả số phận của cái đẹp, cái tuyệt hảo trong thế giới đọa lạc, bất hảo.
Những tác động đầu tiên đến nhân quần của công tước Mưskin - trong hình tượng nhân vật này phảng phất bóng dáng của một số nhân vật nổi tiếng của văn học thế giới: Don Quichotte, Picquick... và của chính Kitô, “gương mặt đẹp chính diện vô tiền khoáng hậu” - giống như tác động của ánh sáng tới những sinh vật sống trong bóng tối. Những con người xung quanh Mưskin, dù họ có là ai trong xã hội Nga bấy giờ, tất cả đều bất hạnh - bất hạnh vì sự độc ác, ích kỉ, tham lam mù quáng của kẻ khác và vì sự quá ư không hoàn hảo của chính mình. Trong thâm tâm, họ khát khao một cuộc sống khác, và ban đầu Mưskin quả làm thức dậy được cái phần tốt đẹp ở trong họ, tập hợp họ xung quanh mình. Nhưng những phản ứng ngược lại cũng bộc lộ rất nhanh và mỗi lúc một gia tăng dữ dội. Luật của thế giới đen tối và giả dối không dung nạp luật của con người trong sáng và chân thật. Cuộc đụng độ là không thể tránh khỏi và kết cục của nó được định trước : công tước Mưskin sẽ bại vong, kéo theo mình một linh hồn thân thương mà chàng muốn cứu giải trước tiên, một sắc đẹp tuyệt thế mà chàng ngưỡng mộ - Nastasia Philippovna. Sự bại vong của cái đẹp là cốt lõi của bi kịch, và Dostoievski quả đã viết nên một bi kịch nhân loại không có biên giới, không gian thời gian. Bộ phim xuất sắc của Kurosawa Chàng Ngốc mà trong đó các nhân vật của Dostoievski trở thành người Nhật, sự việc diễn ra ở nước Nhật thế kỉ XX cho thấy rất rõ điều đó.
Có thể rút ra những kết luận khác nhau từ thất bại của Mưskin. Tác giả không tiếc chi tiết để làm nổi rõ sự yếu đuối bất lực, sự ngây thơ khờ dại của nhân vật của ông. Với những ảo tưởng và ngộ nhận không thể sửa chữa về người đời, với chí hướng khoan dung tha thứ tất cả, Mưskin không thể tìm cho mình chỗ đứng trong cuộc đời (lịch sử quan hệ của nhân vật này với Aglaia và với Rogogin không để lại nghi ngờ gì về mặt này). Mưskin lại càng không thể thành đạt trong những nỗ lực can thiệp vào sự đời, cải hóa nhân quần. Để cải tạo xã hội, để chiến thắng cái ác, con người cần có nhiều phẩm chất khác và cương lĩnh hành động khác. Thế nhưng dưới ngòi bút của Dostoievski, cái xã hội mà trong đó không có chỗ cho Mưskin và Nastasia Philippovna, không gì thay đổi sau khi hai hiện thân của cái đẹp ấy ra đi - xã hội ấy lộ hết tính phi nhân đến trái tự nhiên và vì thế mà hư ảo của mình, còn chân lí của kẻ chiến bại Mưskin thì lại tỏa sáng mãi mãi, hứa hẹn thành công trong những cục diện nhân thế khác. Cũng như mọi tác phẩm bi kịch thực thụ, Chàng Ngốc tiềm ẩn ánh sáng của hi vọng phục sinh.
(Còn nữa)
 Theo : Giáo sư Phạm Vĩnh Cư

CÁI ĐẸP LÀ MỤC ĐÍCH CUỐI CÙNG CỦA SỰ SINH TỒN


Peterburg, nơi Dostoievski trở về vào đầu thập niên 1860-1870, đương sục sôi không khí “đêm trước” cách mạng. Chế độ phong kiến nông nô đang sống những ngày cuối cùng. Nước Nga sau đó sẽ đi đâu? Trước câu hỏi ấy, xã hội phân chia thành nhiều phe phái. Phái cấp tiến nhất - phái cách mạng dân chủ với Chernyshevski là lãnh tụ tinh thần kêu gọi nước Nga “cầm lấy rìu”, đánh đổ nhà nước quân chủ chuyên chế, đưa nước nhà lên thẳng chủ nghĩa xã hội.

Do ảnh hưởng của tuyên truyền cách mạng, sinh viên bãi khóa, biểu tình, những phần tử manh động đốt cháy từng khu phố. Phái tự do tư sản sùng phương Tây thì hô hào nhanh chóng du nhập những định chế của phương Tây: hiến pháp, nghị viện, các quyền tự do công dân... để đưa nước Nga đuổi kịp thế giới văn minh. Phe bảo thủ thân Xlavơ cổ xúy bảo tồn “quốc hồn quốc túy” bằng cách phục hồi những kỉ cương trật tự cổ xưa, trước thời Piôtr Đại đế. Dostoievski không theo phái nào, giữ lập trường riêng mà sau này ông sẽ diễn đạt là “sự tổng hòa giải các tư tưởng” trên cơ sở lí tưởng Kitô giáo. Ông và anh ruột thành lập một diễn đàn riêng - tạp chí Thời buổi (Vremia), sau đổi tên thành Thời đại (Epokha) để phát biểu những quan điểm của mình về những vấn đề thời sự của đất nước.
Tạp chí này tồn tại không lâu do cái chết đột ngột của người anh Dostoievski (1864), nhưng nó đã để lại dấu ấn trong lịch sử báo chí Nga. Dostoievski đăng trên tạp chí này tất cả những tác phẩm ông viết trong khoảng 1860-1864, đích thân phụ trách phần văn học và phê bình văn nghệ của tạp chí. Ông tự tay viết một loạt bài phê bình, tranh luận với cả các báo cực tả lẫn cực hữu xung quanh những vấn đề đương nổi lên gay cấn thời ấy như chức năng nhiệm vụ của nghệ thuật, quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống, thế nào là chủ nghĩa hiện thực trong văn nghệ. Quan điểm của Dostoievski khá độc đáo và sâu sắc, đáng được đời sau biết đến. Thí dụ, ông khẳng định: không có thứ “nghệ thuật vị nghệ thuật”, mọi nghệ thuật đích thực đều vì con người và cần cho con người, không bây giờ thì mai sau, không trong hoàn cảnh này thì trong hoàn cảnh khác. Và vì thế cứ để cho người nghệ sĩ sáng tạo tự do, đừng ép anh ta theo khuynh hướng này hay khuynh hướng kia, nhập trường phái này hay trường phái nọ. Với cái đẹp cũng thế. “Con người tiếp nhận cái đẹp một cách hoàn toàn vô điều kiện, chỉ vì nó là cái đẹp, ngưỡng mộ nghiêng mình trước nó, không hỏi vì sao nó có ích...” Cái đẹp là “mục đích cuối cùng của sinh tồn”. Từ luận điểm này, dễ bắc cầu sang định thức nổi tiếng sau này của Dostoievski: “Cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới”.
Hè năm 1862, Dostoievski thực hiện chuyến viễn du đầu tiên sang châu Âu. Ông viếng thăm châu Âu không phải như một du khách nhàn rỗi, mà như một nhà tư tưởng đã có những chủ kiến về thế giới ấy và muốn lấy cái tai nghe mắt thấy kiểm nghiệm những ý kiến của mình. Kết quả của chuyến đi là thiên chính luận triết học dưới hình thức thể kí Ghi chép mùa đông về những cảm tưởng mùa hè (1863). Dostoievski tập trung quan sát hiện thực xã hội ở hai thành phố lớn - Paris và London, một cái là “thiên đường”, một cái là “địa ngục” của Tây Âu tư bản chủ nghĩa, và nhận định: nền văn minh châu Âu đã đi vào ngõ cụt, nó đã phản bội lí tưởng cao đẹp mà chính nó đề xướng, nó bóc lột thậm tệ giai cấp cần lao để đem lại lợi ích cho một thiểu số nhỏ, mà lối sống của thiểu số ấy là lối sống cá nhân vị kỉ, “mỗi người vì mình, Thượng Đế vì mọi người” hay là “chiến tranh của tất cả chống lại tất cả”; sự giải phóng cá nhân ở đây chỉ dẫn đến sự cô đơn, tha hóa và thui chột nhân cách con người.
Kết luận: con đường của Tây Âu không phải là con đường của nước Nga, ở Nga, nơi mà lí tưởng bác ái do Kitô di huấn vẫn sáng chói trong tâm thức dân tộc, chế độ xã hội, quan hệ cá nhân - tập thể phải được thiết lập trên cơ sở khác - trên cơ sở tình yêu và tự do. Trong Ghi chép mùa đông về những cảm tưởng mùa hè, Dostoievski lần đầu tiên phác thảo và công bố cái học thuyết xã hội - nhân văn của mình, trong đó vấn đề tự do mới được đề cập lướt qua. Trọng tâm của thiên chính luận là phản bác óc sùng bái mù quáng, bắt chước một cách nô lệ phương Tây.
Ghi chép mùa đông về những cảm tưởng mùa hè cho thấy một đặc điểm của tư duy Dostoievski: ông luôn luôn bám sát thời cuộc, quan tâm tha thiết đến ngày hôm nay, nhưng trong mớ bòng bong của ngày hôm nay ấy ông sẽ lẩy ra và bắt người đọc ông tập trung chú ý vào những vấn đề hệ trọng nhất và muôn thuở nhất của nhân sinh. Ông là một nhà báo siêu hạng.
Cũng năm 1863, mấy tháng sau khi xuất hiện Ghi chép mùa đông về những cảm tưởng mùa hè, Chernyshevski đăng trên tạp chí Người cùng thời đại tiểu thuyết Làm gì? trình bày cương lĩnh cải tạo xã hội, xây dựng con người mới của ông và vẽ nên bức tranh tương lai một màu tươi sáng của nhân loại. Dostoievski lập tức bước vào tranh luận với Chernyshevski bằng tác phẩm Bút kí từ nhà hầm, trong đó vấn đề tự do của con người sẽ trở thành trọng tâm tư tưởng. Lần này Dostoievski tranh luận một cách rất độc đáo, với nghệ thuật cao cường của một tiểu thuyết gia đại tài. Ông sáng tạo một nhân vật tiểu thuyết hẳn hoi, để cho nó kể về mình, tự nhận xét mình, phát biểu những ý kiến của mình về cuộc đời và con người và nhân tiện tranh luận với Chernyshevski, không gọi tên ông. Chỉ khúc xạ qua lời nói của nhân vật, người đọc có thể đoán biết chủ kiến của tác giả. Mặt khác, thông qua nhân vật ấy, với tính cách, hành vi, quan điểm của nó, Dostoievski xác định nhãn thức của mình về con người, xây dựng cái mà người đời sau sẽ gọi là “nhân học Dostoievski”. Thế thì Dostoievski tranh luận nhiều nhất với Chernyshevski về cái gì?

Dostoievski nhìn thấy - và ông không ngộ nhận - ở Chernyshevski một môn sinh của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Châu Âu, mà học thuyết Dostoievski đã biết từ những năm 40 thế kỉ XIX. Cái “lâu đài bằng pha lê” trong tiểu thuyết Làm gì?, nơi loài người trong tương lai sẽ sống, lao động và hưởng thụ chung, có những thông số cơ bản chung với một phalanstère (nhà chung) của Fourier hay công xã Icarie của Cabet, mà với Dostoievski, cuộc sống ở đấy “còn đáng ghét hơn, khủng khiếp hơn tù khổ sai”. Các kiểu nhà chung và công xã ấy thể hiện một lối tư duy và một phương cách giải quyết vấn đề xã hội - con người, cá nhân - tập thể mà Dostoievski không thể chấp nhận. Theo một truyền thống tư tưởng có lịch sử ngàn đời - nó kéo từ thời cổ đại Hi-La (Platon), qua Phục Hưng (T.Moore, Campanella, F.Bacon) sang cận đại - các nhà xã hội và cộng sản chủ nghĩa châu Âu trước Mác chẳng thấy một cách nào giải quyết những mâu thuẫn xã hội, ngăn chặn chủ nghĩa cá nhân và những xung đột cá nhân - tập thể ngoài cách khống chế gắt gao cá nhân, bắt nó chịu sự chi phối một chiều và vô điều kiện của tập thể, đồng hóa cá nhân với những chức năng xã hội. Cá nhân ở đây về thực chất đã bị xóa bỏ, chỉ còn lại những cá thể, những “tiêu bản” của loài người.

Trong các học thuyết về xã hội lí tưởng của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng thuộc mọi thời đại, ta đều thấy những mô hình bất biến, quy định trước từng li từng tí, một lần và vĩnh viễn đời sống xã hội và cá nhân, duy lí hóa triệt để cuộc sống để phòng tránh mọi mâu thuẫn, mọi xung đột - Dostoievski phẫn nộ gọi chúng là những học thuyết “tổ kiến”, là “chủ nghĩa bầy đàn”, và xem ra ông không bất công. Loài người trong thế kỉ vừa qua đã phải trả giá quá đắt cho cái lối giải quyết quan hệ cá nhân - tập thể như thế, cho những đồ án xã hội duy ý chí một cách không tưởng như thế. “Cái đáng sợ nhất ở các thuyết không tưởng là chúng dễ trở thành hiện thực” - Nikolai Berdiaev, một trong những triết gia lớn nhất thế kỉ XX và một trong những người con tinh thần của Dostoievski, viết không sai một tí nào.
Nhân vật Bút kí từ nhà hầm, một cái đầu chuộng nghịch lí, đưa ra ba mô hình biểu tượng về tổ chức xã hội loài người: “tổ kiến”, “chuồng gà” và “lâu đài pha lê”. “Tổ kiến” thì đương nhiên hắn không chấp nhận, nhưng “lâu đài pha lê” hắn cũng không ưng. Hắn nói: nếu chẳng có gì tốt hơn, thì thà chọn “chuồng gà”. Chuồng gà là nơi ngủ qua đêm, nơi tránh mưa, một cái gì đó tạm thời, có thể phá đi làm lại. Còn lâu đài pha lê được ban quy chế của cái vĩnh cửu, cái thiêng liêng, ở đấy không được thay đổi một cái gì cả, trong đó mọi người đều hạnh phúc và phải hạnh phúc, không ai được phép đau khổ. Thực chất “lâu đài pha lê” cũng là “tổ kiến”, một tổ kiến được cải tiến, trong đấy cũng không có tự do.
Vấn đề mấu chốt là ở đây. Dostoievski chống chủ nghĩa cá nhân, nhưng ông quý cá nhân và tự do cá nhân, quý sự đa dạng muôn màu muôn vẻ của xã hội loài người, tính chủ động và quyền tự chủ của từng con người. Với Dostoievski, mỗi con người là một giá trị tự thân và vô điều kiện, Dostoievski đòi hỏi cho nó “sự phát triển tối đa”, “sự tự biểu hiện tối đa”. Hạnh phúc của con người, nó phải tự ý niệm và tự làm nên, không thể ban phát và lại càng không thể cưỡng bức hạnh phúc. Bảo vệ “quyền đau khổ” của mình, cương quyết không chịu vào ở cái “lâu đài hạnh phúc chung”, nhân vật Bút kí từ nhà hầm dưới hình thức nghịch lí bênh vực quyền tự do của con người. Với nó, tự do quý hơn hạnh phúc.
Tự do thuộc về bản chất của con người. Tước đoạt tự do của con người là tước đoạt nhân tính của nó - đó là điểm trung tâm trong nhân học Dostoievski. Bút kí từ nhà hầm mở đầu cho một loạt tác phẩm tiểu thuyết của Dostoievski mà trong đó vấn đề tự do của con người sẽ được xem xét trong phép biện chứng và trên các hướng tự khẳng định khác nhau của nó. Nhân vật Bút kí từ nhà hầm đòi hỏi cho mình một tối đa tự do, nó không chấp nhận một sự trói buộc nào, một sự áp đặt nào từ bên ngoài, nó muốn tự phán xét và tự lựa chọn tất cả, và tác giả ở phần đầu của tác phẩm hoàn toàn đồng tình với nó. Nhưng ở phần hai, ông sẽ cho thấy tự do sẽ đưa con người không có lí tưởng dẫn đường ấy, con người là nô lệ của chính mình ấy, đến đâu. Tự do sẽ là ảo tưởng, bởi vì con người ấy trong mọi cảm nghĩ, mọi hành vi ứng xử đều lệ thuộc vào ý kiến và cái nhìn của người khác; tự do sẽ là nguy hại, bởi vì muốn “cởi trói” mình khỏi ràng buộc với xã hội, muốn khẳng định sự độc lập tuyệt đối của mình, con người ấy sẽ gạt bỏ một cách tàn nhẫn và hèn hạ tặng phẩm cao quý nhất mà cuộc đời đem lại cho nó - tình yêu.
Kết luận sơ bộ mà tác giả không nói ra, nhưng người đọc có thể rút ra từ tác phẩm của ông: không có tự do thì không còn con người, nhưng chỉ có tự do trong chân lí mới nâng cao con người, các con đường tự do khác đều dẫn nó đến bại vong. Tự do khó biết bao nhưng cũng tương xứng biết bao với phẩm giá con người!
“Trong khoảng 15 năm, từ 1865 đến 1880, Dostoievski viết nên những tiểu thuyết triết lí chủ yếu của mình: Tội ác và trừng phạt, Chàng Ngốc, Lũ người quỷ ám, Đầu xanh tuổi trẻ, Anh em nhà Karamazov. Sau chúng, nhân loại đã trưởng thành thêm một bước”. - Một nhà khoa học Nga thời Xôviết viết trong một cuốn sách bàn nhiều về quan hệ tinh thần giữa Dostoievski và Einstein.
Một sự đánh giá rất cao, nhưng không quá cao.



Năm tiểu thuyết nói trên, sáng tác trong 15 năm cuối đời của Dostoievski quả là một quần thể kiệt tác kì vĩ và độc đáo vô tiền khoáng hậu. Chúng chứa đựng những khám phá to lớn nhất của Dostoievski về con người, những ý tưởng sâu sắc về lẽ sống và những đường hướng hoàn thiện sự sống, những tiên đoán và cảnh báo lúc phát ra tưởng là huyễn hoặc, nhưng sự anh minh của chúng sẽ được các thế hệ mai sau khâm phục thừa nhận. Chúng là một vũ trụ nghệ thuật hết sức mới lạ đối với ý thức văn học cùng thời, có thể so sánh với vật lí hiện đại trong quan hệ với vật lí cổ điển. (Không phải ngẫu nhiên mà nhà sáng lập vật lí học hiện đại Einstein yêu Dostoievski đến thế, Dostoievski đã cho ông “nhiều hơn bất cứ một nhà tư tưởng nào, nhiều hơn Gauss”, nhà tiền khu của ông trong toán học). Về mặt loại hình, ai ai cũng cảm thấy chất cách tân rõ rệt của những tiểu thuyết ấy, nhưng chưa ai đưa ra được định nghĩa bao quát đầy đủ các đặc điểm cấu thành của chúng: “tiểu thuyết triết lí”, “tiểu thuyết tư tưởng”, “tiểu thuyết - bi kịch”, “tiểu thuyết phức điệu”.... - tất cả những giới thuyết ấy, mặc dù chúng đều đúng đắn và sâu sắc, vẫn không lột tả hết tính độc đáo sáng tạo của những kì đài nghệ thuật mang tên Dostoievski.
“Phép lạ” của những kiệt tác ấy càng nổi rõ hơn, nếu ta nhớ lại hoàn cảnh của nhà văn trong những năm ấy: những cơn động kinh liên tiếp (tần số đặc biệt cao trong những năm 1865-1871, trung bình 10 ngày một cơn, sau mỗi cơn Dostoievski không thể làm việc 3-4 ngày) và các bệnh kinh niên khác; nợ nần chồng chất (trong đó có khoản nợ lớn do tạp chí của anh em Dostoievski phá sản, nhà văn cam kết trả dần cả phần nợ của người anh quá cố) và sự truy lùng của các chủ nợ đã buộc Dostoievski phải trốn ra sống ở nước ngoài nhiều năm; những lo toan bề bộn cho gia đình và họ hàng... Cộng vào đấy là nỗi ham mê cờ bạc đã đeo đuổi Dostoievski gần 10 năm và nhiều phen đẩy ông đến cảnh khốn cùng, nhưng không có nó, chưa chắc ông đã viết nên một truyện dài, vừa là thiên kí sự vừa là một bài nghiên cứu tâm lí rất đặc sắc - Con bạc (1866), truyện này ra mắt độc giả cùng một lúc với Tội ác và trừng phạt.
Nhân vật nam chính trong chuyện - Aleksxei Ivanovich, một thanh niên làm gia sư cho một gia đình quý tộc Nga sống ở nước ngoài. Y có hai đam mê: mê giai nhân tiểu thư Polina, con gái riêng của vợ quá cố của ông chủ, và mê đánh bạc. Polina, một tâm hồn kiêu sa và bất hạnh, khinh rẻ y, ngay trước mắt y bắt tình với một công tử Pháp hào hoa phong nhã, nhưng càng bị khinh rẻ, y càng yêu giai nhân mãnh liệt hơn, một tình yêu-căm thù khá đặc trưng cho thế giới nghệ thuật của Dostoievski. Polina, thất vọng bởi người tình Pháp và trong gia cảnh rối bời, đến với y và nhanh chóng nhận ra rằng y không phải là của nàng hoàn toàn - một nửa tâm hồn y để ở sòng bạc. Y mê cờ bạc không phải vì mộng làm giàu, mà vì những cảm xúc cực mạnh, những khoái lạc đỏ đen của cuộc chơi. Với y, sống đồng nghĩa với chơi. Y không đánh đổi cuộc đời sóng gió thường nhật của con bạc khát nước lấy lối sống trưởng giả bình yên, khôn ngoan, cóp nhặt. So sánh mình với những người Pháp, Đức, Anh... tập hợp ở cái trung tâm cờ bạc quốc tế này, y nhận ra những đặc điểm thuộc bản tính dân tộc Nga của mình: quá phóng túng, không có phong độ và không biết tự kiềm chế. Aleksei Ivanovich là tiền thân của Dmitri Karamazov.
Ba năm sau Con bạc, giữa hai tiểu thuyết Chàng Ngốc và Lũ người quỷ ám, Dostoievski viết một thiên truyện tâm lí khác - Người chồng muôn thuở (1869). Một gã quý tộc thuộc xã hội thượng lưu Peterburg gần đến tuổi tứ tuần thấy chán ngán vô độ cuộc sống nhàn tản và hưởng lạc của mình. Hắn bắt gặp một người quen cũ, một viên chức từ tỉnh lẻ lên thủ đô tìm hắn, đấy là chồng của một người tình cũ mới qua đời của hắn. Người chồng này suốt đời đặt trọn niềm tin vào người vợ mà y đinh ninh là thủy chung, hiền thục, và chỉ khi vợ đã chết y mới khám phá ra rằng mình đã bao nhiêu lần bị lừa dối. Y quyết tâm tìm và trả thù những tình địch. Một “người chồng muôn thuở” đối đầu với một “tình nhân muôn thuở”, hai người căm ghét nhau đến không đội trời chung, nhưng dần dà cả hai đều nhận ra rằng họ vừa không chịu được nhau, vừa không thể sống không có nhau. Họ là một cặp song trùng, vừa đối nghịch vừa bổ sung nhau. Mỗi người một kiểu, song cả hai đều là nô lệ của phụ nữ, người chồng thì vì sự khâm phục và phục tùng vợ đã ăn vào máu thịt, còn người tình thì, như một Don Juan, không thể sống mà không chinh phục trái tim phụ nữ. Người chồng muôn thuở trong thâm tâm ghen tị với người tình muôn thuở, thèm khát vị trí của y, song người tình thì không khỏi lo ngại ngày nào đó sẽ rơi vào hoàn cảnh của người chồng.
Con bạc và Người chồng muôn thuở rõ ràng là hai tác phẩm không xoàng tí nào, song chúng không những bị che khuất bởi những tiểu thuyết vĩ đại của Dostoievski, mà chính tác giả cũng chẳng bao giờ nhắc đến chúng, một khi chúng đã được viết xong. Với tất cả sự hấp dẫn của chủ đề, tất cả những phân tích tâm lí rất tinh vi, tài tình, đây vẫn chỉ là ngoại vi của thế giới nghệ thuật Dostoievski. Ở Dostoievski, phân tích tâm lí không phải là mục đích tự thân, mà là phương tiện để khám phá thế giới tinh thần, thế giới của các tư tưởng, các tín niệm chiếm lĩnh tâm hồn con người và chi phối những hành vi của nó. Dostoievski là nhà tinh thần học nhiều hơn nhà tâm lí học. Chỉ cần so sánh ông, thí dụ, với S.Zweig hay M.Proust, là ta thấy rõ tất cả sự khác biệt giữa hai kiểu tài năng này.
(Còn nữa)
 Theo : Giáo sư Phạm Vĩnh Cư

Thứ Năm, 2 tháng 12, 2010

Thương nòi giống thần tiên giáng bút


"Cầu cơ" là một khái niệm khá phổ biến đối với đạo Cao Đài. Xung quanh nó là biết bao câu chuyện hư thực. Xin giới thiệu bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) về chủ đề này.
Trong các nghi lễ của người Việt thời trước, có một không gian nghi lễ khá đặc biệt rất đáng để ý là thiện đàn. Ở đấy diễn ra một hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh độc đáo là giáng bút - một hiện tượng văn hoá tâm linh có thực trong xã hội Việt Nam, tức là cầu Thánh - Thần - Tiên - Phật cho mình những bài thơ, thông qua một người có năng lực đặc biệt.
Song vì nhiều lý do mà giới nghiên cứu đã coi đó là một vùng cấm và không dành cho nó một sự quan tâm thích đáng, ngoại trừ hai học giả là Nguyễn Văn Huyên (Tục thờ cúng thần tiên ở Việt Nam, 1944) và Đào Duy Anh (Hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm, 1989).

Giáng bút là hiện tượng “nhập thần” trong đó thực hiện nghi lễ cầu cúng để mong muốn có sự phán truyền dạy dỗ của thần linh thông qua văn tự (Hán Nôm) mà thư viện Viện Hán Nôm hiện đang lưu trữ 254 cuốn thơ văn giáng bút, với hàng vạn bài thơ, bài văn.
Tài liệu có niên đại sớm nhất là năm 1825 được in tại đền Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, nay là di tích Việt Đông hội quán, số nhà 22 Hàng Buồm, Hà Nội. Về niên đại xuất hiện nhiều bản giáng bút nhất là các năm 1870 - 1898 và 1906 - 1911.
“Thuật bói tiên lấy cành đào làm thành hình mỏ hạc treo lên một cần trúc, lấy một cái sọt tre đựng đầy ắp cát sạch, đặt cần trúc bên cạnh rồi đốt bùa đọc phép, cái mỏ hạc tự nhiên chuyển động, vạch thành chữ trên cát”(Đường An Đan Loan Phạm gia thế phả - Phạm Đình Hổ).
Giáng bút là hiện tượng “nhập thần” trong đó thực hiện nghi lễ cầu cúng để mong muốn có sự phán truyền dạy dỗ của thần linh thông qua văn tự (Hán Nôm) mà thư viện Viện Hán Nôm hiện đang lưu trữ 254 cuốn sách, với hàng vạn bài văn thơ.
Năm 1825 là niên đại của tài liệu sớm nhất hiện biết trong kho sách Hán Nôm. Thế nhưng, Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) một danh sĩ, nhà khảo cứu nổi tiếng thời cuối Lê đầu Nguyễn, trong Đường An Đan Loan Phạm gia thế phả (A.909) có thuật chuyện ông ngoại của mình như sau: “Cụ có thuật bói tiên, thường lấy cành đào làm thành hình mỏ hạc treo lên một cần trúc, lấy một cái sọt tre đựng đầy ắp cát sạch, đặt cần trúc bên cạnh rồi đốt bùa đọc phép, cái mỏ hạc tự nhiên chuyển động, vạch thành chữ trên cát”. Lời thuật này rõ ràng cho biết ông ngoại của Phạm Đình Hổ là người thực hiện nghi lễ giáng bút cầu văn tự. Qua đây cho thấy, chúng ta có thể vẫn tìm thấy các văn bản giáng bút có niên đại sớm hơn năm 1825 là bản xưa nhất có trong thư viện Viện Hán Nôm.

Học giả Việt Nam đầu tiên quan tâm đến giáng bút có lẽ là Lê Quý Đôn. Trong khi đi sứ nhà Thanh (Trung Quốc) ông đã quan tâm tìm hiểu, sưu tầm được sách Âm chất văn chú. Năm 1839 Âm chất văn chú được khắc in theo bản cũ do Lê Quý Đôn mang về từ Trung Quốc. Sách dày chừng 350 trang in. Nhưng bản Âm chất văn chú in năm 1839 không phải là bản in giáng bút sớm nhất mà ta thấy được trong kho sách Hán Nôm.

Ngay từ năm 1825, tại đền Hà Khẩu, huyện Thọ Xương (Hà Nội) đã tổ chức khắc in bộ sách Quan Phu tử kinh huấn hợp khắc (AC. 408), 150 trang in. Sách này chép lời giáng bút của Quan Thánh đế quân (Quan Phu tử, Quan Vân Trường).

Suốt nửa cuối thế kỷ XIX, đã có nhiều thiện đàn được mở ra ở hầu khắp các tỉnh ở Bắc bộ: Hà Nội, Nam Định, Hà Đông, Sơn Tây, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Bình, Thái Nguyên, Hải Phòng, Ninh Bình, Hưng Yên, Phúc Yên...

Nội dung và hình thức thơ ca giáng bút càng về sau càng khác lúc ban đầu. Thời gian đầu là giáng bút của các vị thần của Đạo giáo Trung Quốc như Văn Xương Đế quân, Quan Thánh Đế quân... Các bài thơ văn giáng bút này được in trong một quyển sách và chúng không phải là văn bản có được sau một cuộc giáng bút cầu văn tại Việt Nam. Hay nói khác đi, nó chỉ như một cuốn danh ngôn mà những người tu đạo tâm niệm. Nội dung, do vậy mang tính chung chung. Văn giáng bút ở đây đều bằng chữ Hán, được diễn đạt bằng thơ luật. Về sau, do yêu cầu mới của đời sống xã hội, thơ giáng bút đã thay đổi. Các vị thần linh giáng bút không chỉ là có nguồn gốc Trung Quốc nữa, mà còn có các tiên nho liệt thánh Việt Nam, như Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Trưng Vương, Liễu Hạnh... Thơ do yêu cầu phải đến với quảng đại quần chúng nên đã có nhiều thơ lục bát, song thất lục bát. Văn giáng bút cũng phần nhiều không dùng chữ Hán mà dùng chữ Nôm. Các bản sách văn giáng bút cũng được sưu tập ngay từ đàn giáng bút và đưa đi khắc in ngay.

Có tình hình ấy là do bối cảnh chính trị, xã hội Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Ví dụ như khi các sĩ phu Hà thành lập ra hội Hướng Thiện, do Tiến sĩ Vũ Tông Phan làm Hội trưởng thì mục tiêu đặt ra là: Hướng mọi người làm việc thiện, xây dựng một lối sống tốt đẹp, theo chuẩn mực của truyền thống. Về sau, hội Hướng Thiện mở mang thêm các hoạt động văn hoá như: tu sửa tôn tạo di tích đền Ngọc Sơn...

Thực trạng kinh tế, xã hội Việt Nam từ khi Gia Long lên ngôi đến khi Tự Đức cắt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp tuy đang trong giai đoạn xây dựng kiến thiết nhưng đã dần được củng cố. Việt Nam là một nước độc lập, thống nhất và phát triển có đường hướng. Triều đình Tự Đức sau nhiều “khự nự” đã hoàn toàn bất lực trước sự lấn lướt của Thực dân Pháp và sự “đe dọa” của văn minh phương Tây. Trong triều đình ấy, nội bộ cũng đã có sự phân hóa, chia ra làm hai phái rõ rệt: chủ chiến và chủ hòa. Vua Tự Đức thì ở phái chủ hòa. Một quan chức trong triều là Dương Khuê dâng sớ đề nghị đánh Pháp. Vua đã phê vào sớ: “ Bất thức thời vụ”, và đày ông đi sơn phòng, trông nom việc khai khẩn ở miền sơn cước.

Chỉ sau khi Tự Đức băng, thì phái chủ chiến trong đám quần thần mới dần chiếm ưu thế, bởi được vua Hàm Nghi và một trọng thần quyền thế là Trương Đăng Quế làm hậu thuẫn. Năm 1885 phong trào Cần Vương được phát động chính thức và phát triển sâu rộng khắp Trung kỳ, Bắc kỳ.
Một giá trị rất đặc biệt của thơ văn giáng bút cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là dưới ảnh hưởng của các phong trào yêu nước, đã làm phát khởi những biểu tượng mới trong văn hóa Việt Nam mà trước đó ít khi được nhắc đến. Đó là những biểu tượng về Quốc hồn, Quốc túy, Quốc dân, Nòi giống, Giống Lạc Hồng, Con Rồng Cháu Tiên được nhắc đến rất nhiều, rất khẩn thiết và nhằm đến đối tượng là các tầng lớp nhân dân lao động.
Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 254 cuốn thơ văn Nôm giáng bút lời của Tiên - Phật –Thánh - Thần sưu tập từ 98 thiện đàn nằm ở hầu hết các tỉnh ở châu thổ Bắc bộ. Nội dung thơ văn giáng bút cũng chính là nội dung, mục đích hoạt động của các thiện đàn do các nhà Nho chủ trương. Đó là một chương trình tuyên truyền rộng khắp suốt thời gian cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tập trung vào hai vấn đề: Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi và Chấn hưng văn hóa dân tộc.
Phong trào Cần Vương đi vào suy thoái bằng sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Sơn do nhà sĩ phu khoa bảng Phan Đình Phùng làm thủ lĩnh.
Từ sau năm 1897 khởi nghĩa Hương Sơn thất bại, nhiều nơi trong nước đã từng có những cuộc khởi nghĩa hay nổi dậy lẻ tẻ. Đòi hỏi của lịch sử về cứu nước, giành lại giang sơn tổ quốc trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.

Thơ văn yêu nước thời kỳ này nhằm đến một quần chúng nhân dân đông đảo. Và để phù hợp với việc kêu gọi lòng yêu nước và tự hào dân tộc, các hình thức diễn đạt quen thuộc với đông đảo bình dân được lựa chọn. Thơ lục bát và song thất lục bát được ưa dùng. Những lối nói ẩn dụ về nòi giống, tổ quốc, giang sơn... giàu sức biểu cảm được dùng phổ biến trong các lời văn giáng bút. Các sinh hoạt văn hoá, văn nghệ trong dân gian có lồng ghép thêm những nội dung mới, nhằm thức tỉnh lòng yêu nước.

Trong các sinh hoạt văn hoá, văn nghệ dân gian, thì kê đàn giáng bút là một hoạt động tín ngưỡng đặc biệt. Ở đó con người giao tiếp với thế giới của Thánh - Thần - Tiên - Phật qua một người có biệt năng. Người này sẽ chuyển các thông điệp bằng văn thơ có nội dung khuyên bảo, răn dạy, kêu gọi của Thánh, Thần cho con người trên cõi trần gian. Hơn nữa giáng bút lại là một hoạt động tín ngưỡng ngưng kết nhiều thành tố đặc sắc của văn hoá dân gian như: thơ ca dân gian, múa dân gian, nghi thức tín ngưỡng... Tham gia vào giáng bút là tham gia vào tín ngưỡng, tham gia vào sáng tạo văn hoá văn nghệ dân gian nhằm tiếp xúc với một tiên giới trong tâm tưởng.

Cũng chính vì hoạt động giáng bút là một hoạt động mang tính tổng hợp như vậy nên đã thoả mãn được nhiều giai tầng công chúng cho dù là các nhà khoa bảng, học hành đỗ đạt cao, nhà nho ở nông thôn, cho đến tầng lớp tiểu thương nơi phố thị, nông dân chốn quê mùa. Sức sống của giáng bút cũng ở đấy. Và sức sống của việc tuyên truyền yêu nước cũng ở đấy. Nó nương vào tôn giáo, tín ngưỡng, nương vào công xã nông thôn để hoạt động và thúc giục quần chúng.

(còn nữa)

Thứ Sáu, 26 tháng 11, 2010

Tri thức và thường kiến


Thưa tiến sĩ Adler, Có thật là có tri thức không hay tất cả đều là thường kiến?
Hình ảnh của thế giới và lối sống của chúng ta đã thay đổi quá nhiều trong năm mươi năm qua khiến tôi băn khoăn không biết chúng ta có thể có được tri thức chắc chắn về một điều gì đó không? Phải chăng hầu hết những gì người ta gọi là tri thức thật ra chỉ là thường kiến?
F.S.
 
F.S. thân mến,
Hầu hết chúng ta đều biết thế nào là một thường kiến. Chúng ta thấy rằng những ý kiến của chúng ta là niềm tin mà người khác không thể chia sẻ. Chúng ta đã quen nghe những người bất đồng với chúng ta nói, “Đó chỉ là ý kiến của anh” (hoặc “quan điểm của anh”). Ngay cả khi chúng ta đưa ra một ý kiến có căn cứ vững chắc, chúng ta thường vẫn cảm thấy đôi chút hoài nghi về nó. “Tôi có lý do chính đáng để tin như thế,”chúng ta nói, “nhưng tôi không thể cam kết là chắc chắn.”
Do đó, có ba đặc trưng của thường kiến:
(1) Chúng nói lên những khả hữu hơn là những điều chắc chắn.
(2) Chúng có thể bị nghi ngờ.
(3) Những người thích suy luận vẫn có thể bất đồng trong ủng hộ hai thường kiến đối lập nhau.
Xưa nay chủ nghĩa hoài nghi vẫn cho rằng mọi thứ đều là thường kiến, tất cả đều có thể còn tranh cãi. Thậm chí những kẻ hoài nghi cực đoan còn giảm trừ những thứ như toán học và khoa học thành thường kiến. Ví dụ, họ chỉ ra rằng, hệ thống của khoa hình học hình thành trên những giả thiết, vì vậy những giả thiết khác cũng có thể được thiết lập và những hệ thống hình học khác có thể đã ra đời. Khoa học thực nghiệm, ở đỉnh cao của nó, nhà hoài nghi khăng khăng nói, gồm toàn những khái quát hóa rất có thể đúng, nhưng đó không phải là những điều chắc chắn bất khả nghi.
Đối lập với thuyết hoài nghi như thế là quan điểm của các triết gia cổ Hy Lạp. Plato và Aristotle cho rằng con người có thể có được tri thức thực sự về một số vấn đề nào đó. Trong chính bản chất của chúng, một số sự vật thì tất yếu và không thể nào khác đi được. Ví dụ, trong bản chất của những toàn thể và những thành phần, điều tất yếu là toàn thể luôn luôn lớn hơn bất cứ thành phần nào của nó. Đây là điều chúng ta biết chắc chắn. Ngược lại, trong bản chất của những người đàn ông lịch sự và những cô gái tóc vàng, không có gì tất yếu làm cho những người đàn ông lịch sự luôn luôn thích những cô tóc vàng, và vì thế đây chỉ là vấn đề thường kiến.
Sự khác nhau giữa tri thức và thường kiến cũng có thể được diễn đạt bằng các thuật ngữ tâm lý học. Khi chúng ta được hỏi, “Những người đàn ông lịch sự có thích các cô tóc vàng không?” hoặc “Đảng Cộng Hòa sẽ thắng trong cuộc bầu cử sắp tới không?” chúng ta được tự do chọn lựa câu trả lời. Không có gì trong câu hỏi bó buộc chúng ta trả lời Có hoặc Không. Nhưng khi chúng ta được hỏi toàn thể có lớn hơn một thành phần của nó không, chúng ta không có sự lựa chọn về câu trả lời. Nếu chúng ta tập trung tâm trí vào mối quan hệ giữa toàn thể và thành phần, chúng ta chỉ có thể có một cách duy nhất để nghĩ về mối quan hệ đó. Chính đối tượng mà chúng ta đang suy nghĩ tới sẽ quyết định tư duy của chúng ta.
Điều này cung cấp cho chúng ta một chuẩn mực rất rõ ràng để phân biệt điều chúng ta nói ra là tri thức hay thường kiến. Nó là tri thức khi đối tượng mà chúng ta đang nghĩ đến buộc chúng ta phải nghĩ về nó theo một cách nào đó. Lúc ấy điều chúng ta nghĩ không phải là ý kiến riêng của chúng ta. Nhưng khi đối tượng của tư duy chúng ta để cho chúng ta tự do đi tới một quyết định về nó, bằng cách này hay cách khác, lúc đó điều chúng ta nghĩ chỉ là thường kiến – ý kiến riêng tư của chúng ta, nó được hình thành mà không bị cưỡng bách. Ở đây, có thể có những ý kiến bất đồng với chúng ta.
Khi đã hiểu được sự khác biệt giữa tri thức và thường kiến, chúng ta phải thừa nhận rằng hầu hết những tuyên bố của chúng ta là những thường kiến. Tuy nhiên cần biết rằng những thường kiến cũng khác nhau về độ chắc thực. Một vài tuyên bố dựa trên bằng chứng hoặc những lý lẽ xác đáng, mặc dù không phải chung quyết, nhưng cũng làm cho chúng trở nên khả thủ. Những tuyên bố khác không có căn cứ vững chắc, hoặc không dựa trên nền tảng nào cả mà chỉ là những thành kiến đầy chủ ý của chúng ta.
Vì thế vấn đề còn bỏ ngỏ là lịch sử, toán học, khoa học thực nghiệm, và triết lý nên được xếp vào tri thức hay thường kiến. Như chúng ta vừa thấy, nhà hoài nghi cực đoan nói rằng cả bốn lĩnh vực ấy đều là thường kiến, mặc dù họ thừa nhận chúng có nhiều trọng lượng hơn là những ý kiến riêng tư hoặc thành kiến cá nhân. Tôi sẽ bảo vệ quan điểm ngược lại, đó là chúng ta có thể có tri thức trong toán học và triết học, và có thường kiến rất có thể đúng trong khoa học thực nghiệm và lịch sử.
Nguồn : http://khoaxaydung.edu.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=737&Itemid=452

Thứ Ba, 23 tháng 11, 2010

Hạnh phúc là nhìn thấy điểm dừng

Jared Diamond và vận mệnh xã hội loài người


 
Trần Hữu Dũng

Jared Diamond (người Mỹ, sinh năm 1937) hiện là giáo sư địa lí của trường đại học California tại Los Angeles (UCLA). Tuy ông có bằng tiến sĩ về sinh lí học, nhưng kiến thức của ông bao trùm hầu như mọi ngành, từ kiến trúc, ngôn ngữ, khảo cổ, đến động vật học, y học.  Ông cũng không phải là một học giả “tháp ngà”: ông đã đi khắp châu lục, thậm chí sống nhiều năm ở những nơi gần như “tận cùng thế giới” (như đảo Tân Ghi-nê, đảo Phục Sinh).   Hai cuốn sách của ông (một cuốn ra năm 1997, đoạt giải Pulitzer, thuộc hàng “best seller”, và một cuốn vừa ra cuối năm 2004) đã đặt ông vào hàng ngũ những nhà tư tưởng hiện đại có nhiều ảnh hưởng nhất ở Mỹ.

Từ khoảng đầu thập niên 90 đến nay, Jared Diamond bị nung nấu bởi một câu hỏi: Sau hơn 13000 năm lịch sử, tại sao sự phát triển của các giống dân trên thế giới đã trở thành quá khác nhau như ngày nay? Theo Diamond, các nhà viết sử (ít ra ở phương Tây) đã phạm một lỗi lầm vì họ đã nhìn không đúng khuôn mặt lịch sử của loài người.  Cụ thể, họ chỉ chú trọng vào các xã hội tương đối văn minh (ít nhất là có chữ viết) ở Âu Á (Eurasia) và Bắc Phi, và ngay trong dòng sử của lục địa Âu Á, họ lại chỉ tập trung vào phía Tây, ít chú ý đến các quốc gia phía Đông (nổi  bật là Trung Quốc, nhưng kể cả Nhật Bản và Đông Nam Á).  Hơn nữa, phần lớn sử kí hiện nay là chỉ nhìn vào khoảng 3000 năm sau này, dù rằng khoảng thời gian đó chỉ là 0,1% trong chiều dài 5 triệu năm loài người có mặt trên trái đất. Theo Diamond, nhờ những tiến bộ như sinh vật học phân tử, di truyển học, sinh địa lý, khảo cổ học, và ngôn ngữ học, đã đến lúc chúng ta có thể giải thích sự khác biệt về trình độ phát triển giữa các nước.
 

I

Trong cuốn “Súng, Vi trùng, và Thép: Định mệnh của các Xã hội Loài người” (“Guns, Germs, and Steel: The Fates of Human Societies”, New York: Norton, 1997) Jared Diamond viện dẫn những yếu tố môi trường và cấu trúc để giải thích tại sao các nước tây phương trở nên thống trị thế giới.  Mục đích của ông, Diamond bộc bạch ngay từ đầu, là nhằm triệt hạ những ý kiến cho rằng chủng tộc, văn hoá, và truyền thống có ảnh hưởng quyết định đến những khác biệt về công nghệ của những xã hội khác nhau, trên những châu lục khác nhau, trong suốt lịch sử.

Diamond tóm tắt phát hiện của ông như sau: Lịch sử của các nhóm dân khác nhau là khác nhau không phải vì sự khác biệt sinh học (biological) giữa các sắc dân, nhưng vì sự khác biệt về môi trường sinh sống ngay từ đầu.  Nói cách khác, lí do căn bản của sự bất bình đẳng trong thế giới ngày nay bắt nguồn từ rất xa trong quá khứ.  Nói thẳng hơn nữa: Jared Diamond hoàn toàn bác bỏ những lí thuyết “chủng tộc”, cho là giống dân này bẩm sinh “thông minh” hơn, hoặc “tài ba” hơn giống dân khác.

Hãy lấy năm 1500 sau công nguyên làm điểm mốc.  Có thể xem năm này là khởi điểm thời kì các nước châu Âu đi chinh phục các châu lục khác.  Lúc ấy thì các nước đã có những khác biệt về trình độ công nghệ và tổ chức chính trị.  Phần lớn Âu Á và Bắc Phi đã có những quốc gia ở vào thời kỳ đồ sắt, thậm chí vài nước đã sắp sang thời kì công nghiệp hoá.  Hai nhóm ở châu Mỹ (Inca và Aztec) đã là những đế quốc có dụng cụ bằng đá và bắt đầu thử nghiệm với đồng.  Những dân tộc khác thì kém phát triển hơn: đa số dân ở châu Úc, châu Mỹ, và châu Phi (dưới Sahara) vẫn còn hoàn toàn dựa vào nông nghiệp, thậm chí vài nhóm vẫn còn sống nhờ săn bắn và lượm nhặt với khí cụ bằng đá.

Lẽ dĩ nhiên, những khác biệt ấy về trình độ công nghệ vào khoảng năm 1500 là nguyên do gần gũi nhất đưa đến sự chênh lệch hiện nay trên thế giới.  Những đế quốc có khí cụ bằng sắt sẽ chinh phục hoặc tiêu diệt những nhóm dân chỉ có khí cụ bằng đá.  Nhưng Jared Diamond không hoàn toàn thỏa mãn với cách trả lời này.  Ông gặng hỏi:  Nhưng tại sao thế giới lại có tình trạng ấy vào năm 1500?

Ngược dòng lịch sử xa hơn nữa, từ khi thời Đại Băng Hà chấm dứt cho đến 11000 trước tây lịch, mọi người ở khắp các châu lục đều sống nhờ săn bắn và hái nhặt.  Như vậy, chính sự khác biệt về tốc độ phát triển (cụ thể là giữa lục địa Âu Á và những lục địa khác) từ năm 11000 trước tây lịch đến 1500 sau tây lịch đã đưa đến sự chênh lệch mà ta thấy khoảng năm 1500.

Jared Diamond đơn cử trường hợp châu Âu thuộc địa hoá Tân Thế giới.  Hiển nhiên, đó là vì người Âu có tàu bè, có tổ chức chính trị, có súng, có gươm thép, có ngựa, rồi cơ may lại đem theo những loại vi trùng bệnh tật giết thổ dân da đỏ ngay trước khi những người này đứng lên chống cự (vì thế có tên sách “Súng, Vi trùng, và Thép”).  Song Diamond không dừng lại ở đó, ông tra hỏi thêm: Thế thì tại sao dân châu Âu có những lợi điểm ấy mà thổ dân châu Mỹ không có (đặc biệt, tại sao các vi trùng của dân châu Âu lại độc địa đối với thổ dân châu Mỹ, thay vì ngược lại?).  Càng truy gặng, càng lùi ngược về quá khứ, Diamond càng thấy các yếu tố môi trường là quan trọng.

Cụ thể, Diamond phân biệt bốn cách khác nhau về môi trường:

(1) Khác nhau thứ nhất giữa những đại lục là về các giống thảo mộc và động vật hoang dã mà con người có thể đem về nuôi trồng.   Ông lí luận rằng khả năng nuôi trồng là quyết định khả năng có lương thực thặng dư, và chỉ khi lương thực có thặng dư thì xã hội mới “nuôi” đuợc một thành phần “chuyên viên” giúp xã hội phát triển những lãnh vực như công nghệ, văn hoá, v.v.   Chính những phát triển này sẽ tạo cho xã hội liên hệ những ưu thế chính trị và quân sự so với láng giềng.

(2) Khác nhau thứ hai là về những yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch (cả người lẫn vật) trong cùng một lục địa.  Những sự chuyển dịch này là dễ dàng nhất ở lục địa Âu Á, bởi vì hướng chính của lục địa này là đông tây, tưong đối ít có những ngăn trở môi sinh và địa lí.

(3) Khác nhau thứ ba là về những yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch giữa các lục địa. Vì những ngăn trở địa lí, nhiều lục địa không nhận được những công nghệ hay thú vật, thảo mộc từ các lục địa khác.  Song, Diamond nhìn nhận, sự biệt lập này lắm khi cũng có lợi vì nó khuyến khích phát triển những giống vật nuôi trồng tại địa phương, cũng như các công nghệ bản địa.

(4) Cái khác nhau cuối cùng là về dân số và diện tích đất đai.  Lục địa càng rộng, càng đông dân, thì càng có nhiều người phát minh.  Hơn nữa, trong một lục địa như vậy cũng sẽ có nhiều xã hội tranh đua nhau hơn, rồi chính sự tranh đua giữa các xã hội gần gũi nhau đó sẽ gây áp lực phát minh và cải cách, bởi lẽ những quốc gia “tụt hậu” sẽ bị các quốc gia khác thống trị, thậm chí tiêu diệt.

Một đoạn thích thú trong quyển sách là sự so sánh của Diamond về sự tiến bộ công nghệ giữa Trung Quốc và tây phương.  Trung Quốc đã có những hạm đội viễn dương vào những năm đầu của thế kỉ 15, nhưng sau đó không lâu thì lại giải thể hạm đội này, chấm dứt mọi hoạt động viễn du, vì lệnh triều đình (cụ thể là do sự tranh chấp quyền lực giữa hai phe trong triều đình lúc ấy). Ở châu Âu, trái lại, nhà thám hiểm Columbus đã tìm được tài trợ cho chuyến đi của ông từ triều đình Tây Ban Nha sau khi bị nhiều nơi khác từ chối.  Theo Diamond, sự thống nhất của Trung Quốc cho phép nước này canh tân trước phương tây, song cũng chính sự thống nhất sớm của Trung Quốc đã làm giảm đi khả năng “đổi mới” của nước này.  Triều đình ra lệnh một cái là mọi hoạt động canh tân dừng lại ngay!  Ở châu Âu thì khác: một tiến bộ bị ngăn chận ở nước này sẽ có thể được tiếp tục ở nước khác.  Các nước châu Âu đủ gần gũi nhau để chia sẻ những ý kiến mới, nhưng quyền hành lại không tập trung đến độ có thể hoàn toàn giết chết một ý mới.  Theo Diamond, đây là một bài học cho hiện tại, khi mà sự tập trung trong các môi trường truyền thông, nhà nước, và văn hoá ngày càng lớn

Tuy ít ai không nễ phục sự uyên bác của Jared Diamond về hàng loạt lãnh vực, song nhiều người vẫn không thấy thật sự bị thuyết phục bởi trọng tâm ý kiến của ông (mà họ nghĩ rằng) theo đó mọi việc đều là hậu quả tất nhiên của địa lí, cộng với tình trạng dân số ngày càng cao.  Nhiều ngừơi cho rằng Diamond coi nhẹ vai trò của trí tuệ và do đó đã không thấy hết sự quan trọng của khoa học trong tiến trình lịch sử.  Diamond cũng thường bị trách là nhìn tôn giáo quá phiến diện, bởi vì theo ông thì tôn giáo chỉ là một cách tổ chức xã hội. Tuy nhiên, trong lời bạt viết thêm khi cuốn này tái bản năm 2003, Diamond khẳng định không hề xem nhẹ những yếu tố về con người, tư tưởng, hay văn hoá.  Ông chỉ muốn nói rằng nhìn suốt nhiều nghìn năm lịch sử thì ảnh hưởng của môi trường và địa lí mới thực có tính quyết định.


II

Cuối năm 2004, Jared Diamond xuất bản cuốn “Sụp đổ:  Cách Xã hội Chọn Thất bại Hoặc Thành công” (“Collapse: How Societies Choose to Fail or Succeed”, New York: Viking).  Quyển này tiếp tục tiếp cận của quyển trước, tức là dựa vào những yếu tố môi trường và cơ cấu xã hội để giải thích lịch sử của xã hội ấy.  Tuy nhiên, trong khi cuốn trước tìm cách lí giải sự thống trị của văn minh tây phương trên phần lớn thế giới, thì bây giờ Diamond nghiền ngẫm nguyên nhân đưa đến sự sụp đổ của một số nền văn minh.

Trong cuốn này Jared Diamond trình bày khá chi tiết lịch sử của một số xã hội đã thất bại: Ba đảo ở các vùng bể khá ấm áp (đảo Phục Sinh, đảo Pitcairn, và Haiti), một đảo ở vùng khá lạnh (Grin-len), một vùng bán sa mạc ở lục địa (dân Anasazi miền Tây Nam Hoa Kỳ), một vùng rừng nhiệt đới ở lục địa (dân Maya ở Mê-hi-cô), bang Montana của Mỹ, cũng như vài trường hợp khác như cuộc tàn sát gần đây ở Rwanda, hay hiện trạng xã hội và kinh tế suy sụp ở Haiti.

Một lí do khiến nhiều xã hội thất bại, trong lúc nhiều xã hội khác thành công, theo Jared Diamond, là ảnh hưởng môi trường,  Ở những nơi khí hậu khắc nghiệt (như quá lạnh, hoặc quá khô) thì một  quyết định sai quấy dù nhỏ trong cũng đủ gây diệt vong.  Ở những nơi khác, như miền nhiệt đới, hoặc nơi nhiều mưa, nhiều nước ngọt, thì lầm lỗi trong quyết định sẽ không tai hại như thế.  Nhìn qua các lí do đưa đến sự diệt vong của những xã hội trong lịch sử, Diamond liệt kê năm yếu tố:

(1) Tổn hại môi trường.
(2) Thay đổi khí hậu, ví dụ như thời tiết lạnh hơn hoặc khô hơn.
(3) Liên hệ giữa xã hội và các lân bang thù địch.
(4) Liên hệ với những láng giềng thân thiện.
(5) Cách đối phó của tập thể về mặt chính trị, kinh tế, xã hội trước những khó khăn xảy ra.

Tầm quan trọng tương đối của năm yếu tố trên tuỳ thuộc vào từng trường hợp.  Jared Diamond đưa ra nhiều dẫn chứng.  Trường hợp thứ nhất là sự sụp đổ của xã hội Pô-ly-nê-xia trên đảo Phục Sinh (mang tên ấy vì nhà thám hiểm Jacob Roggeveen đã tìm ra đảo này vào ngày lễ Phục Sinh năm 1722) ba thế kỉ trước đây là do yếu tố môi trường.  Yếu tố (2)-(4) thì gần như không có vai trò gì trong sự sụp đổ này.  Trường hợp thứ hai là sự sụp đổ của bộ lạc Anasazi ở Tây Nam nước Mỹ do ảnh hưởng của tổn hại môi trường và thay đổi thời tiết.

Sự sụp đổ của văn minh Maya ở bán đảo Yucatan (Trung Mỹ) là do yếu tố (1) và (2), cộng với (5). Trước Columbus, văn minh Maya là văn minh cao nhất ở Tân Thế Giới.  Họ có những sáng tạo nổi bật về chữ viết, về thiên văn, về kiến trúc, và nghệ thuật.  Phát sinh ngay từ vùng ấy hơn 2500 năm trước tây lịch, các xã hội Maya ngày càng phát triển từ 250 sau tây lịch trở đi, đạt đến tột đỉnh vào khoảng thế kỉ thứ 8.  Nhưng đến thế kỉ thứ 10 thì nền văn minh này hoàn toàn sụp đổ:  90% dân số biến mất, những đô thị của họ bị rừng bao phủ.  Việc gì đã xảy ra?

Lí do chính là sự huỹ hoại môi trường: cây cối bị đốn, đất bị mòn, và nhiều bất cập về cách quản lí nước.  Hậu quả là số lượng lương thực bị giảm đi.  Những vấn đề này càng trầm trọng thêm vì hạn hán, mà lí do lại có thể tại con người phá rừng.  Thêm nữa, với đất trồng trọt và các tài nguyên khác ngày càng ít đi, giặc giã giành giựt xảy ra liên miên.

Tại sao các nhà vua Maya không thấy những vấn đề này?  Chắc chắn là họ thấy rừng ngày càng bị tàn phá, đất đai bị xói mòn?  Một phần lí do là vì họ sống xa dân chúng, không thấy những vấn đề ảnh hưởng đến đa số xã hội.  Bằng cách bốc lột dân chúng, họ sống phè phỡn trong lúc dân chúng chết đói.  Hơn nữa, những vị vua này lại tranh giành quyền lực với nhau, và đua đòi phô trương cuộc sống xa hoa.  Sống cách biệt với dân chúng, họ chỉ thành công ở một điều: đó là họ chết đói sau cùng!

Trường hợp thứ ba là sự sụp đổ của xã hội Pô-ly-nê-xia trên các đảo Henderson và Pitcairn ở Thái Bình Dương, phần nhỏ là do những tổn hại môi trường tự họ gây ra, nhưng phần lớn là sự mất ngoại thương vì một đối tác ngoại thương của họ bị sụp đổ.  Do đó có thể nói là sự sụp đổ này phần lớn không do lỗi của họ.  Về nhiều mặt, hai đảo này là thiên đuờng nhiệt đới, khá phong phú nhiều loại lương thực và tài nguyên thiên nhiên.  Tuy nhiên, họ phải nhâp khẩu từ đảo Mangareva (cách đó hàng trăm hải lí) các thuyền con, hoa mầu, gia cầm, và võ sò để làm khí cụ.  Rủi thay, xã hội Mangareva lại sụp đổ vì lí do giống như xã hội Maya (tàn phá rừng, đất mòn, và chiến tranh).  Mất những nguồn nhập khẩu, các xã hội Pitcairn và Henderson suy tàn cho đến khi mọi người một là chết, hai là bỏ đi nơi khác.

Trường hợp cuối cùng là sự sụp đổ của dân Norse ở Grin-len (Greenland) vì cả năm yếu tố kể trên.  Trước hết, phải nhận rằng tổ chức xã hội của dân Norse định cư ở Grin-len có nhiều lợi thế: những người này đã du nhập các thể chế văn hoá, tôn giáo v.v. khá phát triển từ nguyên quán của họ ở Bắc Âu.  Tuy nhiên, lỗi lầm của họ là không thấy cái tương khắc giữa sự tồn tại văn hoá và sự tồn tại sinh học.  Nói cách khác, thay vì thích ứng với môi trường Grin-len để sống sót (như láng giềng họ là dân Inuit, tuy không “văn minh” bằng, vẫn tồn tại đến ngày nay), dân Norse khư khư giữ lấy văn hoá (nhất là phong tục ăn thịt, nhất định dù chết cũng không ăn cá!). Họ bị diệt chủng sau hơn bốn thế kỉ là vì thế.

Tất nhiên nhiều xã hội khác cũng đã suy tàn, ngoài những ví dụ đơn cử trên đây, chẳng hạn như văn minh Khờ Me, hay tình trạng Rwanda, thổ dân châu Úc, nước Haiti, v.v.

Một điều khá nổi bật trong lí giải của Diamond là hầu hết các xã hội diệt vong đã gặp vận mạng ấy không phải vì các xã hội ấy bị “giết” bởi một cái gì bên ngoài, nhưng mà do chính họ “tự tử”.  Nhận xét này đặt cho Diamond một câu hỏi: tại sao quyết định tập thể lại thất bại?  Tất nhiên, cá nhân ai cũng có những quyết định sai lầm: trong hôn nhân, trong chọn lựa nghề nghiệp, trong kinh doanh, v.v.  Nhưng có nhiều yếu tố khác khiến tập thể có quyết định sai lầm, chẳng hạn như những xung khắc trong quyền lợi của thành viên, và những “tính động của nhóm” (group dynamics).  Tuy Diamond nhận rằng đây là một đề tài phức tạp không có một câu trả lời duy nhất, nhưng ông có thử phác hoạ một “lộ trình” đóng góp vào sự thất bại của các quyết định tập thể.

Ông chia “lộ trình” này làm bốn khâu đoạn.  Trước hết, một tập thể có thể không thấy một vấn đề trước khi nó xảy ra.  Thứ hai, khi vấn đề đó xảy ra thì tập thể ấy có thể không nhận chân được nó.  Thứ ba, khi tập thể nhận ra vấn đề thì họ cũng không cố gắng giải quyết nó.  Và cuối cùng, họ có thể cố giải quyết nhưng không thành công.

(1) Một tập thể có thể không dự đoán được sự cố trước khi nó xảy ra, vì nhiều lí do.  Một là họ chưa bao giờ trải nghiệm sự cố ấy trong quá khứ, do đó nó nằm ngoài tưởng tượng của họ.  Hai là, sự cố tương tự đã từng có trong quá khứ, nhưng đã quá xa trong dĩ vãng và không ai trong tập thể còn nhớ nó nữa (điều này đặc biệt nghiêm trọng cho những xã hội không có chữ víết).  Ba là, một xã hội không thấy trước vấn đề có thể vì họ suy diễn sai lầm (tương tự như, sau Thế Chiến I, Pháp xây dựng phòng tuyến Maginot để chống Đức vì nghĩ rằng trong tương lai Đức cũng sẽ xâm lăng Pháp theo chiến thuật mà Đức đã dùng).

(2) Sau khi sự cố đã thành hiện thực, một tập thể có thể không nhận thấy nó.  Có ba lí do.  Thứ nhất, nguyên nhân của nhiều hiện tượng rất khó thấy.  Chẳng hạn như nhiều tập thể đã không biết tại sao đất trồng trọt của mình trở thành kém màu mỡ đi.  Thứ hai, có thể là người quản lí sống nơi khác, không biết được tình huống đang xảy ra ở một địa phương.  Thứ ba, và thường nhất, một xã hội có thể không nhận thấy một hiện tượng khi hiện tượng đó xảy ra dần dần, qua thời gian dài, lại vừa có thể dao động lên xuống.  Ví dụ như ngày nay nhiều người phủ nhận là trái đất ngày càng ấm, vì nếu nhìn vào nhiệt độ trung bình thì có năm thì nóng, có năm lại lạnh hơn bình thường.  Chỉ khi nhìn vào xu huớng nhiệt độ hàng thế kỉ thì mới thấy nó có đà lên cao.

(3) Song, theo Diamond, lí do quan trọng nhất là dù sự cố đã xảy ra, và tập thể nhận xét đúng, nhưng không đối phó được vì một thiểu số sẽ theo đuổi quyền lợi (ích kỉ) của bản thân họ dù hành động ấy sẽ tổn hại, thậm chí hoàn toàn trái ngược quyền lợi cộng đồng. 

(4) Cuối cùng, một tập thể có thể không phạm những lỗi lầm (1)-(3) nhưng cố gắng của họ là không hiệu quả, giải pháp quá tốn kém, không đủ mạnh, quá chậm, hoặc gây ra những tai hại khác.

Vậy, Jared Diamond kết luận, xã hội đã có nhiều quyết định thãm hại do nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên, ông cũng bảo rằng không phải là xã hội nào cũng thất bại, bằng cớ là hiện nay loài người vẫn còn tồn tại! Hơn nữa, nhân loại ngày nay có nhiều lợi điểm hơn trong quá khứ.  Một là chúng ta có nhiều thông tin hơn về kinh nghiệm những nơi khác, đang xảy ra cũng như trong quá khứ, mà chúng ta có thể học hỏi được.  Hai là, nhờ “toàn cầu hoá”, mỗi quốc gia không còn tuỳ thuộc vào chỉ một quốc gia khác.  Về khoa học và công nghệ, tuy Diamond nhìn nhận rằng nó có ích, song ông cũng cảnh báo là chính công nghệ có thể gây ra nhiều hiểm họa mới.  (Bill Gates, trong bài điểm sách của Jared Diamond, cũng nhất trí điều này.)

Tuy Jared Diamond có những khám phá mới lạ và nhiệt tình biện hộ cho cách lí giải lịch sử  của mình, ông cũng nhận rằng nhiều lối giải thích khác (chẳng hạn như ý kiến nổi tiếng của Thomas Carlyle theo đó lịch sử là do những “vĩ nhân” uốn nắn) có thể có ích hơn trong những trường hợp nào đó (ví dụ như khi giải thích những giai đoạn ngắn).  Nhiều người quý mến thái độ hoà nhã này của Diamond, song cũng có người cho rằng ông có thói “ba phải”.   Một chỉ trích nữa là Diamond tuyển chọn những kinh nghiệm lịch sử quá cá biệt.  Tuy nhiên, muốn đánh giá đúng đắn lí thuyết của Jared Diamond, cần phải đọc toàn bộ tác phẩm của ông.  Một bài giới thiệu ngắn như thế này, dù trung thực, cũng không thể dồi dào và súc tích như nguyên bản.

Theo: Trần Hữu Dũng
Dayton, Hoa Kỳ
1/2005

 Nguồn :http://www.viet-studies.info/THDung/Doc_JaredDiamond.htm 

Thứ Năm, 18 tháng 11, 2010

Trái đất lâm bệnh



Anh Thư

Trái đất đang lâm bệnh; Trái đất đang cạn kiệt; chúng ta là những thế hệ cuối cùng có khả năng ngăn chặn sự phá hủy sinh vật sống; hạn hán, bão lũ sẽ xảy ra thường xuyên hơn do sự nóng lên của hành tinh... Những nhận xét và dự báo này khiến nhiều người hoảng hốt. Liệu con người có đủ thông thái để bảo vệ cái nơi ẩn náu của mình trong mênh mông vũ trụ? Chưa ai dám chắc, nhưng có thể khẳng định rằng con người có cơ hội, vì con người có hai phẩm chất tuyệt vời: trí tưởng tượng và khả năng thích nghi.
Khí hậu nóng lên
  Nhiệt độ toàn cầu tăng lên 0,60C từ một thế kỷ nay đẩy nhanh quá trình bốc hơi nước mặt, đặc biệt là nước biển, và làm đảo lộn toàn bộ cỗ máy thời tiết. Các hiện tượng khắc nghiệt như hạn hán, bão lũ (trong ảnh là thành phố New Orleans ngập chìm trong nước sau khi cơn bão Katrina tràn qua) có nguy cơ trở nên thường xuyên và nguy hiểm hơn.
Từ 50 năm nay, bùng nổ dân số và công nghiệp hóa đã làm đảo lộn những cân bằng của hành tinh. Theo các nhà khoa học, có một điều chắc chắn: nhiệt độ sẽ tăng lên! Các nhà nghiên cứu của Nhóm liên chính phủ các chuyên gia về diễn biến thời tiết (Giec) dự báo rằng từ nay đến năm 2100, nhiệt độ trung bình của hành tinh xanh sẽ tăng từ 1,40C-5,80C. Sự ấm lên này sẽ lớn hơn trong các vùng hàn đới, ôn đới và xích đạo. Tại Pháp, nếu nhiệt độ trung bình tăng 30C, thì thực vật và động vật phải thích nghi, dịch chuyển xa 300km về phía bắc, hoặc biến mất. Nước sẽ dâng cao trong các cửa sông. Miền Nam trở nên ngày càng khô hơn. Trong miền Đông, mùa hè nóng hơn xen lẫn với những mùa đông lạnh hơn. Cứ hai mùa hè lại có một mùa hè xảy ra nóng bức trên 400C.
Thủ phạm của sự nóng lên nhanh chóng này không phải ai khác mà chính là con người. Con người đã và đang thải ra những lượng lớn khí gây hiệu ứng nhà kính, những khí có tính chất giữ lại trong khí quyển nhiệt lượng mặt trời. Nồng độ khí cacbonic (CO2), sinh ra khi đốt cháy các năng lượng hóa thạch (dầu, khí tự nhiên và than), ngày nay đã đạt tới mức kỷ lục. Mặc dù Nghị định thư Kyoto (1997) đã được nhiều nước phê chuẩn và áp dụng, nhưng dự báo lượng khí thải vẫn sẽ tăng do tăng trưởng của các nước đang phát triển (80% dân số thế giới). Lượng khí thải tính trên đầu người của Trung Quốc thấp hơn của Mỹ từ 10-15 lần. Điều này khiến người ta lo ngại rằng, trong trường hợp đất nước hơn một tỷ dân này đuổi kịp Mỹ về kinh tế, thì ô nhiễm sẽ còn tăng mạnh hơn nữa. Rất may, trong những năm gần đây, Trung Quốc đã có những biện pháp cứng rắn và khá hiệu quả trong việc hạn chế ô nhiễm, chẳng hạn như xây dựng một công viên 70.000 taxi điện chào mừng Olympic Bắc Kinh 2008.
Ô nhiễm không khí
Theo Bộ Sinh thái Pháp, tại nhiều thành phố của đất nước hình lục lăng, mức dioxit lưu huỳnh (khí thải của các nhà máy nhiệt điện) đã giảm 10% mỗi năm từ 7 năm nay, chì đã gần như biến mất khỏi không khí (từ khi chì bị loại khỏi xăng), nồng độ dioxit nitơ (chủ yếu do vận tải đường bộ) cũng đã giảm 20% trong sáu năm qua, nhưng vẫn cao hơn các mục tiêu đề ra, đặc biệt ở Paris. Bên cạnh đó, nhiều điểm tối vẫn tồn tại dai dẳng và có nguy cơ tăng lên. Chẳng hạn như các hạt siêu mịn do các động cơ diesel thải ra. Nồng độ trung bình ozone cũng tăng lên hằng năm, từ 3,5mg/m3 năm 1994 lên hơn 50mg/m3 hiện nay. Dù tại tất cả các nước thuộc liên minh Châu Âu, chất lượng không khí đã được cải thiện rõ rệt, nhưng vẫn còn xa mới đáp ứng được yêu cầu. Tình hình khó khăn hơn trong các thành phố lớn của các nước đang phát triển, đặc biệt trong các vùng nhiệt đới. Tại Manila, nồng độ chì cao hơn 400% mức cho phép. Các thành phố có mức độ ô nhiễm nhất là: Bắc Kinh, Cairo, Jakarta, Mexico , São Paulo và Los Angeles. Theo tổ chức Y tế Thế giới, ô nhiễm không khí là nguyên nhân của 2,7% số bệnh tật trên toàn thế giới: khó thở, ung thư và chậm phát triển ở trẻ nhỏ.
Thiếu nước
Nông nghiệp tiêu thụ 70% nước ngọt, vượt xa so với công nghiệp (22%) và sinh hoạt gia đình (8%). Hiện nay, cuộc tranh luận về nước tại nhiều quốc gia đặt câu hỏi: liệu người ta có phải từ bỏ các canh tác sử dụng nhiều nước như lúa nước (vài trăm lít cho 1kg thóc) hay đưa ra một chương trình giữ nước để tiếp tục tưới tiêu trên quy mô lớn? Về phần nước sạch, nỗi lo không phải là việc cung cấp, mà là sự ô nhiễm các trữ lượng nước ngầm: 60% các điểm khai thác bị ô nhiễm bởi thuốc trừ sâu. Vì vậy nông nghiệp phải chịu sức ép thay đổi các phương thức canh tác.

BÀI HỌC LỊCH SỬ 

Đế chế La Mã diệt vong do ô nhiễm?
Nhiều sử gia khẳng định rằng chính ô nhiễm đã gây ra sự sụp đổ của Đế chế. Sự nhiễm độc chì rất có hại cho máu mà các triệu chứng của nó là đau bụng dưới, bất lực, vô sinh, điên loạn... Vậy mà, thành Roma cổ lại rất thích sử dụng chì. Kim loại mềm và có thể ôxy hóa này được sử dụng khắp nơi: trong các đường ống dẫn nước cũng như trong các đồ dùng bếp núc. Ngoài ra, người ta còn sử dụng chì để sản xuất thuốc nhuộm tóc, thuốc diệt tinh trùng và cả vòng tránh thai. Nghiêm trọng hơn, chì còn được dùng để làm tăng vị cho rượu và các món ăn. Trong thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên, cùng thời gian với tầng lớp quý tộc chìm trong các cuộc chè chén ở đó chì được sử dụng rất nhiều, sự vô sinh và chứng ngu độn đã trở thành thảm họa. Hành động điên rồ của Caligula (37-41 sau CN) có thể được giải thích bằng việc ông đã bị nhiễm chì quá nặng. Commode (180-192 sau CN) có trong vườn cả một thùng rượu để lúc nào cũng có thể say khướt. Và khi hoàng đế uống, thì toàn thành Rome cũng chạm cốc...
Khó khăn còn nằm ở chỗ nước phân bố rất không đều và trở thành vấn đề sống còn tại nhiều nước. Hiện nay, 1,4 tỷ người không được tiếp cận thường xuyên với nước sạch. Hậu quả là dịch tả, thương hàn và ỉa chảy vẫn thường xuyên xảy ra. Nếu cơ sở hạ tầng nước không được cải thiện thì năm 2030 sẽ có 3 tỷ người không có nước sạch để dùng. Lúc đó liệu có còn đủ nước cho nông nghiệp tại các nước có tỷ lệ gia tăng dân số cao hay không? Nhân loại hiện đang sử dụng 54% trữ lượng nước ngọt tiếp cận được. Con số này sẽ lên tới 90% vào năm 2030. 50% các hồ, đầm và ao đã biến mất từ một thế kỷ nay và rất nhiều tầng nước ngầm, tại Bắc Mỹ và Trung Đông, sẽ cạn kiệt trong 25 năm tới.
Nông nghiệp tiêu thụ 70% nước ngọt, vượt xa so với công nghiệp (22%) và sinh hoạt gia đình (8%). Hiện nay, cuộc tranh luận về nước tại nhiều quốc gia đặt câu hỏi: liệu người ta có phải từ bỏ các canh tác sử dụng nhiều nước như lúa nước (vài trăm lít cho 1kg thóc) hay đưa ra một chương trình giữ nước để tiếp tục tưới tiêu trên quy mô lớn? Về phần nước sạch, nỗi lo không phải là việc cung cấp, mà là sự ô nhiễm các trữ lượng nước ngầm: 60% các điểm khai thác bị ô nhiễm bởi thuốc trừ sâu. Vì vậy nông nghiệp phải chịu sức ép thay đổi các phương thức canh tác.Khó khăn còn nằm ở chỗ nước phân bố rất không đều và trở thành vấn đề sống còn tại nhiều nước. Hiện nay, 1,4 tỷ người không được tiếp cận thường xuyên với nước sạch. Hậu quả là dịch tả, thương hàn và ỉa chảy vẫn thường xuyên xảy ra. Nếu cơ sở hạ tầng nước không được cải thiện thì năm 2030 sẽ có 3 tỷ người không có nước sạch để dùng. Lúc đó liệu có còn đủ nước cho nông nghiệp tại các nước có tỷ lệ gia tăng dân số cao hay không? Nhân loại hiện đang sử dụng 54% trữ lượng nước ngọt tiếp cận được. Con số này sẽ lên tới 90% vào năm 2030. 50% các hồ, đầm và ao đã biến mất từ một thế kỷ nay và rất nhiều tầng nước ngầm, tại Bắc Mỹ và Trung Đông, sẽ cạn kiệt trong 25 năm tới.
 Cây trồng trái vụ gây ô nhiễm hơn cây bình thường, do phải sử dụng thuốc sâu và nhiều phân bón hơn.

Đa dang sinh học bị đe dọa 

Theo Liên minh thiên nhiên thế giới (UICN), khoảng từ 50-300 loài sinh vật sống biến mất mỗi ngày. Trước mắt, một phần tư số loài động vật có vú, một phần tám số loài chim và một phần ba số loài lưỡng cư bị đe dọa. Ô nhiễm, khí hậu nóng lên, môi trường sống tự nhiên mất cân bằng: các hoạt động của con người là nguồn gốc của những hiện tượng này. Phải chăng chúng ta đang ở ngay trước cuộc đại diệt thứ sáu, tương đương với cuộc đại thảm sát từng làm tuyệt chủng loài khủng long? UICN đã lập một danh sách đỏ 15.589 loài đang gặp nguy hiểm. Sự biến mất của các loài có hậu quả gì đối với cuộc sống của con người? Jacques Weber làm việc tại Trung tâm hợp tác quốc tế nghiên cứu nông học vì sự phát triển giải thích: "Sự biến mất một loài tự bản thân nó không đặt ra vấn đề. Tuy nhiên, bằng một hiệu ứng dây chuyền, nó sẽ có những tác động đến toàn bộ hệ sinh thái gắn với nó".
Tháng 6.2005, Trạm khí tượng Nendaz-Mont-Fort, Thụy Sỹ đã đưa ra một quyết định táo bạo: "bọc" các tảng băng tuyết ở Tortin để chúng không bị tan chảy.
Chẳng hạn, số loài thực vật phải ký sinh trong bộ máy tiêu hóa của voi để nảy mầm. Nếu voi biến mất, số các loài này sẽ bị đe dọa. Tương tự, sự tuyệt chủng của loài rong rơm, các loại thực vật dưới biển có lá cao, sẽ làm đảo lộn sự hoạt động của 500 loài khác. Con người cũng cần đa dạng sinh học để sống. Từ các vi khuẩn, cho phép dạ dày người hoạt động, cho tới các loại thảo dược. Vấn đề: từ mức độ phá hủy loài nào con người sẽ bị đặt vào vòng nguy hiểm?

Thay đổi cách sống? 

Tiết kiệm điện là việc đầu tiên phải nghĩ tới. Một ngày nào đó những chiếc cravat sẽ bị cấm, ít nhất vào mùa hè? Tại sao không, nếu tính đến thành công của chiến dịch "Cool Biz" phát động từ mùa hè năm 2005 tại Nhật Bản. Mục đích của chiến dịch: khuyến khích nhân viên văn phòng không đeo cravat và mặc đồ rộng để tiết kiệm điện dùng cho quạt và máy điều hòa. Bộ trưởng Môi trường Nhật Bản đồng thời khuyến nghị chỉ nên bật điều hòa phòng ở mức 280C.

NHỮNG CON SỐ BIẾT NÓI 

6 triệu hecta đất màu mỡ sẽ biến thành sa mạc mỗi năm. 4 tỷ hecta bị đe dọa, tức là một phần ba diện tích đất của hành tinh.
27 triệu kilômét vuông, đó là kích thước của lỗ thủng tầng ôzôn đo được tháng 9 năm 2005 trên Nam Cực.
14,6 triệu hecta rừng bị tàn phá mỗi năm, tức là bằng diện tích của nước Hy Lạp. Trong khi đó chỉ có 3,6 triệu hecta được trồng lại hoặc do sinh sản tự nhiên.
160.000 tỷ USD là chi phí cho các hệ thống dẫn nước sạch và lọc nước cần cho toàn nhân loại.
11-9cm từ nay đến năm 2100, là mực nước biển tăng do sự tan chảy của các khối băng cực, ảnh hưởng đến 20% dân số thế giới. Sự tăng mực nước biển do vệ tinh Topex-Poséidon tính toán hiện là 1mm mỗi năm, nhưng sẽ tăng lên 5mm mỗi năm trong vài năm tới. 
Nhờ có kỷ luật của các doanh nghiệp và nhân viên, tập đoàn điện Tepco (Tokyo Electric Power) đã có thể công bố tiết kiệm được 70 triệu kWh, tức là mức tiêu thụ điện của 240.000 hộ gia đình trong một tháng... Đó là một  hành động nhỏ, nhưng tương lai của chúng ta sẽ được tạo ra từ những điều chỉnh nhỏ dần dần hơn là các cuộc cách mạng lớn.
Hạn chế đi lại bằng đường không cũng là một giải pháp vì máy bay là một phương tiện vận tải gây ô nhiễm nhất: một chuyến bay khứ hồi Paris- New York sinh ra lượng CO2 lớn hơn một chiếc ôtô chạy trung bình trong một năm. Liên minh Châu Âu đã đưa ra mức quota thải khí CO2 đối với các hãng hàng không. Mỗi hãng được cấp một lượng nhất định "ô nhiễm được phép"; những hãng không sử dụng hết quyền của mình có thể bán cho các hãng khác vượt quá chỉ tiêu. Theo Ủy ban Châu Âu, việc này sẽ làm cho mỗi vé tăng thêm 9 euro.
Song song với việc tiết kiệm năng lượng để bảo vệ môi trường thì chế tài xử phạt các hành vi phá hủy môi trường cũng cần được đề cao. Hiện nay, Châu Âu đã quyết định có thể đưa ra hình thức phạt tù đối với những người gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường. Châu Âu đã đi theo mô hình của Áo, nơi có một hệ thống pháp luật về môi trường rất chặt chẽ và nghiêm khắc. Những ai cố tình gây ô nhiễm môi trường (ví dụ đổ dầu xuống biển) từ nay sẽ bị coi là một tội ác, chứ không phải là một tội nhẹ nữa: những người phạm tội này có thể sẽ phải ngồi tù.
Đám mây đioxit nitơ lớn nhất trên bầu trời phía Bắc Trung Quốc. Sinh ra bởi các nhà máy nhiệt điện chạy bằng than và khí thải của động cơ, đám mây này đã to thêm 50% trong vòng 10 năm qua.
Đây không phải là một biện pháp có tính chất khuyến nghị, mà có tính cưỡng chế buộc các nước của Liên minh phải sửa đổi luật quốc nội. Và, Vatican đã đi đầu trong việc tuân thủ quy định này: một tòa án của Vatican đã kết tội hai lãnh đạo của Radio Vatican, trong đó có Hồng y Tucci, 84 tuổi, 10 ngày tù giam vì tội gây "ô nhiễm âm thanh". Trên thực tế, hai bị cáo đã sử dụng các máy phát thanh vượt quá công suất cho phép.

Những ý tưởng để chăm sóc hành tinh 

Nếu sự phát triển công nghiệp tiếp tục với nhịp độ hiện nay, nếu mức tiêu dùng của toàn nhân loại cao bằng mức tiêu thụ của người phương Tây, thì một hành tinh sẽ không đủ cho chúng ta nữa, mà ít nhất phải có ba hành tinh. Trước tình hình này, một giải pháp logic cần phải được đưa ra: tiết kiệm các nguồn tài nguyên và bổ sung các nguồn năng lượng hóa thạch bằng các năng lượng "sạch". Đó được gọi là "phát triển bền vững", cụm từ bấy lâu người ta rất thích sử dụng nhưng chẳng mấy ai làm được. Hiện nay, một lý thuyết mới của Mỹ gọi là "chủ nghĩa tư bản tự nhiên" dựa trên phát triển bền vững đang gây được nhiều chú ý. Ý tưởng là coi tự nhiên như một nguồn tư bản cần được quản lý hiệu quả nhất có thể. Mục đích: sản sinh ra nhiều hơn bằng cách sử dụng ít hơn nguyên liệu và giảm thiểu việc sinh ra chất thải. Một phép màu? Amory Lovins, lý thuyết gia của phong trào và tác giả của Chủ nghĩa tư bản tự nhiên (Natural capitalism, Nxb Back Bay Books), nêu lên một cuộc cách mạng công nghiệp mới. Thách thức đầu tiên: tiêu thụ ít dầu và than hơn. Ông giải thích, năng lượng bị lãng phí ở tất cả các công đoạn: sản xuất, phân phối và tiêu dùng. Chẳng hạn, một nhà máy nhiệt điện lãng phí 70% nhiệt lượng trong quá trình chuyển hóa nhiên liệu hóa thạch thành điện. Vậy mà, chỉ cần nâng cao khả năng cách nhiệt của các nhà máy nhiệt điện là đã có thể giảm ít nhất 20% lãng phí này. Nhiệt bị tiêu tan ở các nhà máy nhiệt điện ở Mỹ cao hơn 20% toàn bộ năng lượng tiêu thụ ở Nhật Bản. Nếu tránh được lãng phí này, nguồn năng lượng tiết kiệm được có thể dùng để sưởi ấm vào mùa đông. Phải chăng nó cần các khoản đầu tư khổng lồ? Không. Trước mắt, đầu tư để tiết kiệm nhiên liệu rẻ hơn việc mua nhiên liệu với giá ngày càng tăng.
Hơn nữa, 10% năng lượng tiêu tan trong quá trình vận chuyển trong mạng phân phối, và hơn một nửa trong số 90% còn lại biến mất bởi lỗi của các thiết bị không được chế tạo hoàn hảo, các hệ thống cách nhiệt hoạt động kém hoặc các thói quen không phù hợp. Lovins đã đánh giá rằng bằng cách tấn công vào lãng phí ở tất cả các công đoạn thì có thể nhân lên gấp bốn lần hiệu năng của tài nguyên thiên nhiên. Và như vậy là giảm ô nhiễm bốn lần. Một ví dụ, từ 10 năm nay, tập đoàn đa quốc gia DuPont của Mỹ đã tìm cách hạn chế lãng phí năng lượng ở tất cả các cấp độ. Trong thời gian này, mức tiêu thụ năng lượng của tập đoàn đã giảm 7% và các lượng khí gây hiệu ứng nhà kính giảm 72%. Năng suất cũng tăng 30%.
Ý tưởng quan trọng thứ hai là "sinh thái học công nghiệp". Đây thực chất là việc xây dựng các hệ thống sản xuất như các hệ sinh thái. Người ta bắt chước các chu trình của tự nhiên bằng cách tạo ra các vòng khép kín ở đó tất cả các chất thải đều được tái sử dụng. Các chất thải của nhà máy này có thể trở thành nguyên liệu của nhà máy kia; nhiệt tỏa ra bởi một cỗ máy có thể trở thành nguồn sưởi ấm; một lượng nước nhất định có thể được sử dụng trong nhiều nhà máy... Các ưu điểm của phương pháp này vừa mang tính kinh tế (giảm chi phí), vừa mang tính sinh thái (giảm thải khí gây hiệu ứng nhà kính). "Công viên sinh thái" Kalundborg, gần Copenhague (Đan Mạch), là hình mẫu tiêu biểu của một sự cộng sinh công nghiệp như vậy. Tổng cộng, người ta đã thống kê được 19 trao đổi giữa các nhà máy. Nhà máy lọc dầu cung cấp nước thải để làm lạnh cho nhà máy nhiệt điện. Nhà máy nhiệt điện bán hơi nước cho ba nhà máy và thành phố dùng để sưởi ấm, và nước nóng cho một trang trại nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra, nhà máy điện còn tiến hành khử sunfua của các khí thải để tạo ra thạch cao (lưu huỳnh+vôi) và bán cho một công ty chế tạo tấm đúc xây dựng. Công ty xây dựng này đã có thể ngừng nhập thạch cao tự nhiên từ Tây Ban Nha... Tổng cộng, các tiết kiệm đã cho phép giảm 20.000 tấn dầu, 200.000 tấn thạch cao và 2,9 triệu mét khối nước. Các khoản đầu tư cho kỹ thuật này được khấu hao hết sau 5 năm.
"Nước ảo" cứu giúp các nước khô hạn
Để sản xuất ra một kilogram lúa mì, cần phải có 1000 lít nước. Các chuyên gia đã nghĩ ra một từ để chỉ lượng nước không tồn tại trong sản phẩm (hạt ngô) mà được sử dụng trong quá trính sản xuất ra nó, là "nước ảo". Nước ảo làm xuất hiện sự phân biệt giữa các nước xuất khẩu và các nước nhập khẩu nước. Mỹ, nước có các nguồn tài nguyên nước dồi dào, đang bị cạn dần trữ lượng của mình khi dành 1/15 lượng nước sử dụng được của mình cho canh tác nông nghiệp xuất khẩu. Ngược lại, Trung Quốc và Nhật Bản, những nước nhập khẩu lớn lương thực và thực phẩm, và như vậy là nước ảo, tiết kiệm được nguồn tài nguyên nước thực của mình. Đo những trao đổi quốc tế trong lĩnh vực này cho phép dự báo được các nạn thiếu nước trong tương lai. Vì cần phải có 1000 tấn nước để thu được một tấn lúa mì, nên nhập khẩu một triệu tấn lúa mì cũng có nghĩa là nhập khẩu một tỷ tấn nước. Thật vậy, năm 2000, các nhập khẩu ngô đã cho phép Ai Cập tiết kiệm được 2,7 tỷ mét khối nước. Việc này khong chỉ liên quan đến canh tác nông nghiệp: cần phải có 4000 lít nước để tạo ra được một chiếc áo phông và 35.000 lít để tạo ra được một chiếc xe hơi.
"Chủ nghĩa tư bản tự nhiên" đã được ứng dụng tại nhiều nhà máy tiên phong. Nó dựa vào tiến bộ, đặc biệt là tiến bộ công nghệ, để giải quyết các vấn đề về tiếp liệu và ô nhiễm, tạo thêm tiện nghi cho xã hội tiêu dùng hiện đại. Đây chính là nguyên nhân khiến các nhà sinh thái học cấp tiến phản đối: và nếu, rốt cuộc, các lợi ích thu được chỉ làm tăng thêm sản xuất, và như vậy là ô nhiễm thì sao? Đó là "hiệu ứng bóng nảy", theo đó mọi lợi ích sinh thái có nguy cơ bị triệt tiêu bởi sự gia tăng còn lớn hơn lượng tiêu thụ. Theo lập luận này, đưa vào thị trường các ôtô sử dụng ít xăng hơn sẽ khuyến khích việc sử dụng nhiều ôtô và kết cục là mức độ ô nhiễm vẫn không những không giảm mà còn tiếp tục tăng.Các đối thủ của "chủ nghĩa tư bản tự nhiên" và của phát triển bền vững cũng đưa ra giải pháp của riêng mình, hà khắc hơn, đó là "giảm tăng trưởng". Những người "giảm trưởng" này muốn gì? Đoạn tuyệt với phát triển chăng? Họ dựa vào các nghiên cứu của nhà kinh tế học Nicholas Georgescu Roegen, mất năm 1994. Roegen đã trở thành cha đẻ của "kinh tế sinh thái" bằng cách gắn cho môi trường các nguyên tắc của nhiệt động học, được Sadi Carnot phát triển năm 1824: một cỗ máy không bao giờ có thể tạo ra toàn bộ năng lượng mà nó đã tiêu thụ. Tương tự, con người sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên mà không thể tái tạo được như ban đầu. Cuồng nhiệt chạy theo tăng trưởng đã làm cạn kiệt các nguồn năng lượng đồng thời làm ô nhiễm không khí và nước. Vì vậy, cần phải sản xuất ít hơn và tiêu thụ ít hơn: giảm thời gian lao động, sản xuất thủ công chứ không sản xuất công nghiệp hàng loạt, nông nghiệp sinh thái chứ không canh tác công nghiệp và thâm canh, sử dụng các nguồn năng lượng tái sinh chứ không sử dụng năng lượng hóa thạch...
Những người bảo vệ môi trường mạnh mẽ nhất đã áp dụng tư tưởng này trong cuộc sống hằng ngày của họ: không đi máy bay và ôtô, vứt bỏ vô tuyến, tủ lạnh vào thùng giác và tích cực làm vườn. Tuy nhiên, tư tưởng này không thể đứng vững. Bởi lẽ, giảm tiêu thụ nghĩa là cầu giảm, mà cầu giảm thì cung không thể tăng, và như vậy dẫn đến trì trệ về kinh tế. Những người "giảm trưởng" thừa nhận rằng việc ứng dụng các tư tưởng của họ trên toàn cầu chắc chắn không thể xảy ra trong nay mai. Nhưng họ nhấn mạnh rằng tư tưởng này có thể áp dụng được cho từng cá nhân, ngay hôm nay: tại sao lại không đi ôtô chung, hoặc đi xe bus thay vì mỗi người một xe? Tại sao không sửa các máy móc có thể sửa thay vì vứt đi mua cái mới, sử dụng đồ dùng nhiều lần thay vì dùng đồ một lần...?