Giới thiệu về tôi

Thứ Bảy, 11 tháng 12, 2010

THIÊN ĐƯỜNG LÀ ĐÂU

Thiên đường là đâu? Con hỏi cha.
Các nhà hiền triết bảo chúng ta thiên đường ở ngoài biên giới của sống và chết, nó không bị lay động bởi nhịp điệu của ngày và đêm, nó không ở nơi trái đất này.
Nhưng nhà thơ biết rằng nỗi khao khát vô tận của thiên đường là thời gian và khoảng không, và nó luôn khao khát được sinh ra trong cát bụi tốt tươi.
Thiên đường ở trong cơ thể ngọt ngào của con, con ơi, ở trong trái tim thổn thức của con.
Biển cả rung trống hân hoan, những bông hoa nhón chân để hôn con. Và thiên đường được sinh ra trong con, ở trong vòng tay của mẹ-cát bụi.

Lover's Gifts XLIV: Where Is Heaven

Where is heaven? you ask me, my child,-the sages tell us it is beyond the limits of birth and death, unswayed by the rhythm of day and night; it is not of the earth.
But your poet knows that its eternal hunger is for time and space, and it strives evermore to be born in the fruitful dust.

Heaven is fulfilled in your sweet body, my child, in your palpitating heart.
The sea is beating its drums in joy, the flowers are a-tiptoe to kiss you. For heaven is born in you, in the arms of the mother- dust.

Tagore


Thứ Sáu, 10 tháng 12, 2010

KHI THƯỢNG ĐẾ ĐỐI THOẠI VỚI TỪNG THỜI ĐAỊ

Hồi mười bảy tuổi, Dostoievski đã viết về Balzac: “Những tính cách của ông ta là tác phẩm của một trí tuệ vũ trụ! Không phải hơi hướng của thời đại, mà cả hàng ngàn năm bằng sự vật lộn của chúng đã xếp đặt một kết cục như vậy trong tâm hồn con người”.Dostoievski nhận xét một thiên tài khác, như tiên đoán nhãn thức, bút pháp của chính mình.
Nhân vật của ông, một tâm hồn thanh niên trong sáng, hào hiệp, quả cảm, có trí thông minh kiệt xuất, mang nặng trong lòng mối ưu tư không chịu nổi về thế sự. Nó thấy rõ mồn một sự bất công xã hội, cảnh người nghèo hèn bị chà đạp, bị tước mọi quyền sống, còn kẻ giàu sang quyền quý thì lộng hành, sa đọa đến mất tính người. Nó căm ghét cái ác ngự trị trong xã hội, nó phẫn nộ nhận thấy mọi người xung quanh âm thầm chịu đựng ách thống trị ấy. Nó quyết tâm vùng dậy chống lại cả thế giới phi nghĩa vì công lí, nhưng hóa ra cái thế giới độc ác ngàn năm mà nó muốn đánh đổ ấy đã gieo vào trong nó từ bao giờ. Con người nổi dậy ấy, với tham vọng làm cứu tinh, làm ân nhân của loài người, trên thực tế chỉ có thể trở thành một đao phủ mới, và ngay từ đầu, nó đã sát hại những con người vô tội, gây bao khổ đau cho những người thân thuộc và hãm hại con người sâu kín và chân chính ở trong chính nó, với ý niệm đạo lí đã ăn sâu vào tiềm thức, với nhu cầu được sống trong tình yêu thương và cảm thông với đồng loại - chúng tôi nói về tiểu thuyết Tội ác và trừng phạt (1865-1866) và nhân vật chính trong đó, Rodion Raskolnikov.
Trong Tội ác và trừng phạt, Dostoievski tập hợp và soi sáng bằng một ánh sáng mới một loạt đề tài ông đã từng đề cập. Trong sáng tác của Dostoievski chưa bao giờ vấn đề phân cực xã hội theo giàu - nghèo lại được đặt ra một cách gay gắt không nhượng bộ như ở đây. Lịch sử gia đình Marmeladov do chính nhân vật này kể cho Raskolnikov ở đầu truyện dưới ngòi bút Dostoievski trở thành một thảm kịch nhân loại điển hình cho thời đại chủ nghĩa tư bản man rợ. Thảm kịch ấy không có lối thoát, và cái kết thúc êm ả của nó trong tiểu thuyết mang tính ngẫu nhiên. Bi kịch ấy được thắt nút chung với bi kịch của gia đình Raskolnikov, chúng rất giống nhau. Cả hai gia đình đều ở trong cảnh cùng quẫn, trong cả hai gia đình người con gái đức hạnh phải hi sinh mình vì người thân.
Raskolnikov không chấp nhận sự hi sinh ấy và y sẽ hành động để chặt đứt cái “nút chết”. Nhà phê bình dân chủ cấp tiến Pisarev sẽ lấy hoàn cảnh bên ngoài để giải thích tội ác của Raskolnikov: đây là một con người bị cuộc sống đẩy đến bước đường cùng, ông viết. Nhưng ông không để ý là tác giả đã liệu tính trước lối giải thích này và đã đưa vào tiểu thuyết một phản biện sắc bén: Razumikhin. Người sinh viên này cũng nghèo khổ như Raskolnikov, nhưng có giết người cướp của đâu, anh ta cần cù nhẫn nại tìm kế sinh nhai, vừa nuôi mình vừa giúp gia đình. Tội ác của Raskolnikov có nguồn gốc tư tưởng. Raskolnikov có nhiều nét tương đồng với nhân vật Bút kí từ nhà hầm. Đây cũng là con người li khai với xã hội loài người để khẳng định độc lập tự do của mình, tự cởi trói mình khỏi những chuẩn mực đạo đức xã hội mà nó cho là sản phẩm của sự yếu đuối, ươn hèn của đại đa số loài người. Nhưng nếu con người “từ nhà hầm” không có lí tưởng và mục đích sống, nên chỉ quanh quẩn trong những phản ứng tiêu cực vụn vặt với cuộc đời, thì Raskolnikov - con người quá khổ điển hình của Dostoievski - từ ý thức về sứ mệnh “siêu nhân” của mình sẽ cho phép mình phạm những tội ác chống nhân loại.
Tội ác của Raskolnikov là tội ác do ý thức hệ, kiểu tội ác này nguy hiểm hơn rất nhiều cho sự sống của muôn người, cho nền văn minh con người so với những tội hình sự - Dostoievski cảnh báo rất rõ nhân loại từ những trang viết hiền minh của mình. Và quả thực, kiểu tội ác do ý thức hệ đã trở thành một hiện tượng khủng khiếp, có quy mô chưa từng thấy, trong lịch sử nhân loại thế kỉ XX.

Vòng nguyệt quế, nó cũng là vòng mận gai trên đầu nhà tiên tri Dostoievski trong con mắt của độc giả thế kỉ XX, là phần thưởng đích đáng cho một cây bút suốt đời bận tâm tha thiết với tương lai - tương lai của đất nước ông và của cả thế giới, tiền đồ của con người và xã hội loài người, quả là những điểm nóng thường trực trong thế giới tinh thần của Dostoievski. Từ mối bận tâm ấy nảy sinh sự nhạy cảm đặc biệt, thể hiện rất rõ trong Tội ác và trừng phạt và tất cả các sáng tác sau này của Dostoievski, đối với những xu hướng tinh thần, những trào lưu tư tưởng hôm nay còn trứng nước, nhưng ngày mai có thể trở thành sức mạnh hiện thực. Bakhtin nói rất đúng trong công trình kinh điển của ông về Dostoievski: “Dostoievski có năng khiếu thần tình nghe thấy cuộc đối thoại của thời đại mình, hoặc đúng hơn, nghe thấy thời đại mình như một cuộc đối thoại vĩ đại. Ông nghe thấy cả những tiếng nói ngự trị trong thời đại, sang sảng và được mọi người thừa nhận, cả những tiếng nói còn non nớt, những ý tưởng chưa phát lộ hết, cả những tư tưởng ngầm, trừ ông ra không ai nghe thấy, cả những tư tưởng chỉ mới chớm nở, những bào thai của những thế giới quan tương lai”.
Nhiều luồng tư tưởng phản nhân đạo mới chỉ phảng phất trong không khí thời đại, mà Dostoievski đã báo trước về những hậu họa khôn lường của chúng. Khi Dostoievski viết Tội ác và trừng phạt, Nietzsche còn ngồi trên ghế sinh viên đại học và chưa hề nghĩ tới cái học thuyết về “siêu nhân” của mình. Sau này, đọc thiên truyện về Raskolnikov, Nietzsche tưởng đã tìm ra bậc tiền bối tinh thần và vội tôn Dostoievski làm thầy, nhưng rồi ông sẽ thấy mình đã ngộ nhận. Trong một bức thư, ông bực tức viết về cái “luân lí của bọn nô lệ” ở Dostoievski, nhưng luân lí ấy mới là luân lí chân chính của loài người, mà Nietzsche, hướng tới một “siêu nhân” có nhiều nét chung với “con dã thú tóc vàng”, không thể hiểu.
Cái luân lí chân chính ấy của loài người, đối thoại và đối âm với luân lí “siêu nhân” của Raskolnikov, có nhiều hiện thân trong thiên tiểu thuyết phức điệu của Dostoievski, song hiện thân sáng ngời nhất, bất tử nhất vẫn là Sonia Marmeladova. Chỉ có một Sonia thánh hạnh với đức khiêm nhường cứng cỏi, với những xác tín ăn vào máu thịt, với trí anh minh của trái tim, với tình yêu hiến dâng không đòi đền đáp mới có thể cải tử hoàn sinh cho tâm hồn Raskolnikov. Sonia là con chiên nhiệt thành của Chúa Kitô, đạo đức và đạo lí của Sonia không phải là của con người tự nhiên, mà do Kitô di huấn - Dostoievski đinh ninh như thế. Chối bỏ và phản lại Kitô, như Raskolnikov làm, là đẩy mình và nhân quần đến sự bại vong và diệt vong. Dostoievski trong Tội ác và trừng phạt và các tác phẩm sau này sẽ kiên trì tìm giải pháp cho mọi vấn đề xã hội và con người, xuất phát từ lí tưởng và học thuyết của Kitô, như là ông hiểu nó. Ta không vội phán xử ông, mà sẽ cố theo dõi sự vận động của tư duy ông.
Một niềm tin sâu kín và thường trực của Dostoievski: “Cái Đẹp sẽ cứu chuộc thế giới!” Cái Đẹp ở đây tất nhiên là cái đẹp của bản thể, hòa hợp và không tách rời cái Chân, cái Thiện, Tình Yêu, Tự Do, Sáng Tạo, Bất Tử - tất cả các giá trị tuyệt đối của sự sống. Dostoievski suốt đời suy nghĩ về bản chất bí ẩn của cái đẹp, vì sao con người cần đến nó. Ông viết trong Nhật kí nhà văn (1873): “Cái đẹp... thể hiện cho con người và loài người những lí tưởng của họ”. Con người và loài người không thể sống không có lí tưởng và khao khát được thấy lí tưởng ấy hiện hình trong cái đẹp.
Trong Lũ người quỷ ám - tác phẩm tối tăm ảm đạm nhất của ông - Dostoievski nói mượn lời một trong những nhân vật chính, nhân vật này đương diễn thuyết, biện luận hăng say trước một cử tọa hết sức thờ ơ với những tư tưởng tâm đắc của y: “Không có người Anh nhân loại sống được, không có nước Đức cũng thế, không có người Nga sống được quá chứ, không có khoa học cũng được, không có bánh mỳ cũng được, chỉ không có cái đẹp là không thể sống được, bởi vì sẽ không còn gì để làm trên đời này nữa. Toàn bộ bí mật là ở đây, toàn bộ lịch sử ở đây”. Cũng nhân vật ấy sẽ nói trước khi chết, giải thích vai trò của cái đẹp - ở đây đồng nhất với cái cao cả - trong lịch sử loài người: “Toàn bộ quy luật của sự tồn tại nhân loại chỉ là để sao cho con người luôn luôn có một cái gì lớn lao vô hạn để tôn thờ. Nếu bị tước đoạt cái lớn lao vô hạn này, con người sẽ không còn muốn sống và sẽ chết trong tuyệt vọng. Cái Vô Hạn và Vô Cùng cũng cần cho con người như cái hành tinh bé nhỏ, nơi nó sống”. Do vị trí thiết yếu vô song ấy trong đời sống con người, cái đẹp, khi nó hiển lộ đầy đủ như là hiện thân của lí tưởng, sẽ phát huy tác dụng cải tử hoàn sinh cho loài người sa đọa lầm lạc, làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt của thế giới đương đắm chìm trong tội lỗi và khổ đau. Cái đẹp sẽ là sức mạnh cứu thế.
Đó là xác tín của Dostoievski. Cùng với những xác tín khác, nó tạo nên một cực rất mạnh và thường trực trong thế giới tinh thần của ông. Cực khác là thực tại, mà trong đó nhà văn đương sống, đương nhận thức nó và khao khát nó đáp ứng những mong đợi của mình. ý đồ của tiểu thuyết Chàng Ngốc hình thành trong thế đối lập hết sức căng thẳng của hai cực ấy.

Công tước Mưskin, hiện thân của cái đẹp tinh thần: một tâm hồn thánh thiện không vẩn đục bụi trần, thương yêu vô điều kiện đồng loại, xả thân vì họ, sẵn sàng làm anh em, làm trợ thủ, làm bạn tâm tình của tất cả mọi người. Nastasia Philippovna, hiện thân của cái đẹp thân thể - tâm hồn: một nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, một cuộc đời khổ đau, một nhân phẩm bị chà đạp nhưng luôn luôn ngưỡng mộ hướng về cái thiện và công lí. Hai hiện thân của cái đẹp ấy sẽ tác động thế nào đến cuộc đời và cuộc đời sẽ tác động thế nào đến họ? Tiểu thuyết Chàng Ngốc mô tả số phận của cái đẹp, cái tuyệt hảo trong thế giới đọa lạc, bất hảo.
Những tác động đầu tiên đến nhân quần của công tước Mưskin - trong hình tượng nhân vật này phảng phất bóng dáng của một số nhân vật nổi tiếng của văn học thế giới: Don Quichotte, Picquick... và của chính Kitô, “gương mặt đẹp chính diện vô tiền khoáng hậu” - giống như tác động của ánh sáng tới những sinh vật sống trong bóng tối. Những con người xung quanh Mưskin, dù họ có là ai trong xã hội Nga bấy giờ, tất cả đều bất hạnh - bất hạnh vì sự độc ác, ích kỉ, tham lam mù quáng của kẻ khác và vì sự quá ư không hoàn hảo của chính mình. Trong thâm tâm, họ khát khao một cuộc sống khác, và ban đầu Mưskin quả làm thức dậy được cái phần tốt đẹp ở trong họ, tập hợp họ xung quanh mình. Nhưng những phản ứng ngược lại cũng bộc lộ rất nhanh và mỗi lúc một gia tăng dữ dội. Luật của thế giới đen tối và giả dối không dung nạp luật của con người trong sáng và chân thật. Cuộc đụng độ là không thể tránh khỏi và kết cục của nó được định trước : công tước Mưskin sẽ bại vong, kéo theo mình một linh hồn thân thương mà chàng muốn cứu giải trước tiên, một sắc đẹp tuyệt thế mà chàng ngưỡng mộ - Nastasia Philippovna. Sự bại vong của cái đẹp là cốt lõi của bi kịch, và Dostoievski quả đã viết nên một bi kịch nhân loại không có biên giới, không gian thời gian. Bộ phim xuất sắc của Kurosawa Chàng Ngốc mà trong đó các nhân vật của Dostoievski trở thành người Nhật, sự việc diễn ra ở nước Nhật thế kỉ XX cho thấy rất rõ điều đó.
Có thể rút ra những kết luận khác nhau từ thất bại của Mưskin. Tác giả không tiếc chi tiết để làm nổi rõ sự yếu đuối bất lực, sự ngây thơ khờ dại của nhân vật của ông. Với những ảo tưởng và ngộ nhận không thể sửa chữa về người đời, với chí hướng khoan dung tha thứ tất cả, Mưskin không thể tìm cho mình chỗ đứng trong cuộc đời (lịch sử quan hệ của nhân vật này với Aglaia và với Rogogin không để lại nghi ngờ gì về mặt này). Mưskin lại càng không thể thành đạt trong những nỗ lực can thiệp vào sự đời, cải hóa nhân quần. Để cải tạo xã hội, để chiến thắng cái ác, con người cần có nhiều phẩm chất khác và cương lĩnh hành động khác. Thế nhưng dưới ngòi bút của Dostoievski, cái xã hội mà trong đó không có chỗ cho Mưskin và Nastasia Philippovna, không gì thay đổi sau khi hai hiện thân của cái đẹp ấy ra đi - xã hội ấy lộ hết tính phi nhân đến trái tự nhiên và vì thế mà hư ảo của mình, còn chân lí của kẻ chiến bại Mưskin thì lại tỏa sáng mãi mãi, hứa hẹn thành công trong những cục diện nhân thế khác. Cũng như mọi tác phẩm bi kịch thực thụ, Chàng Ngốc tiềm ẩn ánh sáng của hi vọng phục sinh.
(Còn nữa)
 Theo : Giáo sư Phạm Vĩnh Cư

CÁI ĐẸP LÀ MỤC ĐÍCH CUỐI CÙNG CỦA SỰ SINH TỒN


Peterburg, nơi Dostoievski trở về vào đầu thập niên 1860-1870, đương sục sôi không khí “đêm trước” cách mạng. Chế độ phong kiến nông nô đang sống những ngày cuối cùng. Nước Nga sau đó sẽ đi đâu? Trước câu hỏi ấy, xã hội phân chia thành nhiều phe phái. Phái cấp tiến nhất - phái cách mạng dân chủ với Chernyshevski là lãnh tụ tinh thần kêu gọi nước Nga “cầm lấy rìu”, đánh đổ nhà nước quân chủ chuyên chế, đưa nước nhà lên thẳng chủ nghĩa xã hội.

Do ảnh hưởng của tuyên truyền cách mạng, sinh viên bãi khóa, biểu tình, những phần tử manh động đốt cháy từng khu phố. Phái tự do tư sản sùng phương Tây thì hô hào nhanh chóng du nhập những định chế của phương Tây: hiến pháp, nghị viện, các quyền tự do công dân... để đưa nước Nga đuổi kịp thế giới văn minh. Phe bảo thủ thân Xlavơ cổ xúy bảo tồn “quốc hồn quốc túy” bằng cách phục hồi những kỉ cương trật tự cổ xưa, trước thời Piôtr Đại đế. Dostoievski không theo phái nào, giữ lập trường riêng mà sau này ông sẽ diễn đạt là “sự tổng hòa giải các tư tưởng” trên cơ sở lí tưởng Kitô giáo. Ông và anh ruột thành lập một diễn đàn riêng - tạp chí Thời buổi (Vremia), sau đổi tên thành Thời đại (Epokha) để phát biểu những quan điểm của mình về những vấn đề thời sự của đất nước.
Tạp chí này tồn tại không lâu do cái chết đột ngột của người anh Dostoievski (1864), nhưng nó đã để lại dấu ấn trong lịch sử báo chí Nga. Dostoievski đăng trên tạp chí này tất cả những tác phẩm ông viết trong khoảng 1860-1864, đích thân phụ trách phần văn học và phê bình văn nghệ của tạp chí. Ông tự tay viết một loạt bài phê bình, tranh luận với cả các báo cực tả lẫn cực hữu xung quanh những vấn đề đương nổi lên gay cấn thời ấy như chức năng nhiệm vụ của nghệ thuật, quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống, thế nào là chủ nghĩa hiện thực trong văn nghệ. Quan điểm của Dostoievski khá độc đáo và sâu sắc, đáng được đời sau biết đến. Thí dụ, ông khẳng định: không có thứ “nghệ thuật vị nghệ thuật”, mọi nghệ thuật đích thực đều vì con người và cần cho con người, không bây giờ thì mai sau, không trong hoàn cảnh này thì trong hoàn cảnh khác. Và vì thế cứ để cho người nghệ sĩ sáng tạo tự do, đừng ép anh ta theo khuynh hướng này hay khuynh hướng kia, nhập trường phái này hay trường phái nọ. Với cái đẹp cũng thế. “Con người tiếp nhận cái đẹp một cách hoàn toàn vô điều kiện, chỉ vì nó là cái đẹp, ngưỡng mộ nghiêng mình trước nó, không hỏi vì sao nó có ích...” Cái đẹp là “mục đích cuối cùng của sinh tồn”. Từ luận điểm này, dễ bắc cầu sang định thức nổi tiếng sau này của Dostoievski: “Cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới”.
Hè năm 1862, Dostoievski thực hiện chuyến viễn du đầu tiên sang châu Âu. Ông viếng thăm châu Âu không phải như một du khách nhàn rỗi, mà như một nhà tư tưởng đã có những chủ kiến về thế giới ấy và muốn lấy cái tai nghe mắt thấy kiểm nghiệm những ý kiến của mình. Kết quả của chuyến đi là thiên chính luận triết học dưới hình thức thể kí Ghi chép mùa đông về những cảm tưởng mùa hè (1863). Dostoievski tập trung quan sát hiện thực xã hội ở hai thành phố lớn - Paris và London, một cái là “thiên đường”, một cái là “địa ngục” của Tây Âu tư bản chủ nghĩa, và nhận định: nền văn minh châu Âu đã đi vào ngõ cụt, nó đã phản bội lí tưởng cao đẹp mà chính nó đề xướng, nó bóc lột thậm tệ giai cấp cần lao để đem lại lợi ích cho một thiểu số nhỏ, mà lối sống của thiểu số ấy là lối sống cá nhân vị kỉ, “mỗi người vì mình, Thượng Đế vì mọi người” hay là “chiến tranh của tất cả chống lại tất cả”; sự giải phóng cá nhân ở đây chỉ dẫn đến sự cô đơn, tha hóa và thui chột nhân cách con người.
Kết luận: con đường của Tây Âu không phải là con đường của nước Nga, ở Nga, nơi mà lí tưởng bác ái do Kitô di huấn vẫn sáng chói trong tâm thức dân tộc, chế độ xã hội, quan hệ cá nhân - tập thể phải được thiết lập trên cơ sở khác - trên cơ sở tình yêu và tự do. Trong Ghi chép mùa đông về những cảm tưởng mùa hè, Dostoievski lần đầu tiên phác thảo và công bố cái học thuyết xã hội - nhân văn của mình, trong đó vấn đề tự do mới được đề cập lướt qua. Trọng tâm của thiên chính luận là phản bác óc sùng bái mù quáng, bắt chước một cách nô lệ phương Tây.
Ghi chép mùa đông về những cảm tưởng mùa hè cho thấy một đặc điểm của tư duy Dostoievski: ông luôn luôn bám sát thời cuộc, quan tâm tha thiết đến ngày hôm nay, nhưng trong mớ bòng bong của ngày hôm nay ấy ông sẽ lẩy ra và bắt người đọc ông tập trung chú ý vào những vấn đề hệ trọng nhất và muôn thuở nhất của nhân sinh. Ông là một nhà báo siêu hạng.
Cũng năm 1863, mấy tháng sau khi xuất hiện Ghi chép mùa đông về những cảm tưởng mùa hè, Chernyshevski đăng trên tạp chí Người cùng thời đại tiểu thuyết Làm gì? trình bày cương lĩnh cải tạo xã hội, xây dựng con người mới của ông và vẽ nên bức tranh tương lai một màu tươi sáng của nhân loại. Dostoievski lập tức bước vào tranh luận với Chernyshevski bằng tác phẩm Bút kí từ nhà hầm, trong đó vấn đề tự do của con người sẽ trở thành trọng tâm tư tưởng. Lần này Dostoievski tranh luận một cách rất độc đáo, với nghệ thuật cao cường của một tiểu thuyết gia đại tài. Ông sáng tạo một nhân vật tiểu thuyết hẳn hoi, để cho nó kể về mình, tự nhận xét mình, phát biểu những ý kiến của mình về cuộc đời và con người và nhân tiện tranh luận với Chernyshevski, không gọi tên ông. Chỉ khúc xạ qua lời nói của nhân vật, người đọc có thể đoán biết chủ kiến của tác giả. Mặt khác, thông qua nhân vật ấy, với tính cách, hành vi, quan điểm của nó, Dostoievski xác định nhãn thức của mình về con người, xây dựng cái mà người đời sau sẽ gọi là “nhân học Dostoievski”. Thế thì Dostoievski tranh luận nhiều nhất với Chernyshevski về cái gì?

Dostoievski nhìn thấy - và ông không ngộ nhận - ở Chernyshevski một môn sinh của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Châu Âu, mà học thuyết Dostoievski đã biết từ những năm 40 thế kỉ XIX. Cái “lâu đài bằng pha lê” trong tiểu thuyết Làm gì?, nơi loài người trong tương lai sẽ sống, lao động và hưởng thụ chung, có những thông số cơ bản chung với một phalanstère (nhà chung) của Fourier hay công xã Icarie của Cabet, mà với Dostoievski, cuộc sống ở đấy “còn đáng ghét hơn, khủng khiếp hơn tù khổ sai”. Các kiểu nhà chung và công xã ấy thể hiện một lối tư duy và một phương cách giải quyết vấn đề xã hội - con người, cá nhân - tập thể mà Dostoievski không thể chấp nhận. Theo một truyền thống tư tưởng có lịch sử ngàn đời - nó kéo từ thời cổ đại Hi-La (Platon), qua Phục Hưng (T.Moore, Campanella, F.Bacon) sang cận đại - các nhà xã hội và cộng sản chủ nghĩa châu Âu trước Mác chẳng thấy một cách nào giải quyết những mâu thuẫn xã hội, ngăn chặn chủ nghĩa cá nhân và những xung đột cá nhân - tập thể ngoài cách khống chế gắt gao cá nhân, bắt nó chịu sự chi phối một chiều và vô điều kiện của tập thể, đồng hóa cá nhân với những chức năng xã hội. Cá nhân ở đây về thực chất đã bị xóa bỏ, chỉ còn lại những cá thể, những “tiêu bản” của loài người.

Trong các học thuyết về xã hội lí tưởng của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng thuộc mọi thời đại, ta đều thấy những mô hình bất biến, quy định trước từng li từng tí, một lần và vĩnh viễn đời sống xã hội và cá nhân, duy lí hóa triệt để cuộc sống để phòng tránh mọi mâu thuẫn, mọi xung đột - Dostoievski phẫn nộ gọi chúng là những học thuyết “tổ kiến”, là “chủ nghĩa bầy đàn”, và xem ra ông không bất công. Loài người trong thế kỉ vừa qua đã phải trả giá quá đắt cho cái lối giải quyết quan hệ cá nhân - tập thể như thế, cho những đồ án xã hội duy ý chí một cách không tưởng như thế. “Cái đáng sợ nhất ở các thuyết không tưởng là chúng dễ trở thành hiện thực” - Nikolai Berdiaev, một trong những triết gia lớn nhất thế kỉ XX và một trong những người con tinh thần của Dostoievski, viết không sai một tí nào.
Nhân vật Bút kí từ nhà hầm, một cái đầu chuộng nghịch lí, đưa ra ba mô hình biểu tượng về tổ chức xã hội loài người: “tổ kiến”, “chuồng gà” và “lâu đài pha lê”. “Tổ kiến” thì đương nhiên hắn không chấp nhận, nhưng “lâu đài pha lê” hắn cũng không ưng. Hắn nói: nếu chẳng có gì tốt hơn, thì thà chọn “chuồng gà”. Chuồng gà là nơi ngủ qua đêm, nơi tránh mưa, một cái gì đó tạm thời, có thể phá đi làm lại. Còn lâu đài pha lê được ban quy chế của cái vĩnh cửu, cái thiêng liêng, ở đấy không được thay đổi một cái gì cả, trong đó mọi người đều hạnh phúc và phải hạnh phúc, không ai được phép đau khổ. Thực chất “lâu đài pha lê” cũng là “tổ kiến”, một tổ kiến được cải tiến, trong đấy cũng không có tự do.
Vấn đề mấu chốt là ở đây. Dostoievski chống chủ nghĩa cá nhân, nhưng ông quý cá nhân và tự do cá nhân, quý sự đa dạng muôn màu muôn vẻ của xã hội loài người, tính chủ động và quyền tự chủ của từng con người. Với Dostoievski, mỗi con người là một giá trị tự thân và vô điều kiện, Dostoievski đòi hỏi cho nó “sự phát triển tối đa”, “sự tự biểu hiện tối đa”. Hạnh phúc của con người, nó phải tự ý niệm và tự làm nên, không thể ban phát và lại càng không thể cưỡng bức hạnh phúc. Bảo vệ “quyền đau khổ” của mình, cương quyết không chịu vào ở cái “lâu đài hạnh phúc chung”, nhân vật Bút kí từ nhà hầm dưới hình thức nghịch lí bênh vực quyền tự do của con người. Với nó, tự do quý hơn hạnh phúc.
Tự do thuộc về bản chất của con người. Tước đoạt tự do của con người là tước đoạt nhân tính của nó - đó là điểm trung tâm trong nhân học Dostoievski. Bút kí từ nhà hầm mở đầu cho một loạt tác phẩm tiểu thuyết của Dostoievski mà trong đó vấn đề tự do của con người sẽ được xem xét trong phép biện chứng và trên các hướng tự khẳng định khác nhau của nó. Nhân vật Bút kí từ nhà hầm đòi hỏi cho mình một tối đa tự do, nó không chấp nhận một sự trói buộc nào, một sự áp đặt nào từ bên ngoài, nó muốn tự phán xét và tự lựa chọn tất cả, và tác giả ở phần đầu của tác phẩm hoàn toàn đồng tình với nó. Nhưng ở phần hai, ông sẽ cho thấy tự do sẽ đưa con người không có lí tưởng dẫn đường ấy, con người là nô lệ của chính mình ấy, đến đâu. Tự do sẽ là ảo tưởng, bởi vì con người ấy trong mọi cảm nghĩ, mọi hành vi ứng xử đều lệ thuộc vào ý kiến và cái nhìn của người khác; tự do sẽ là nguy hại, bởi vì muốn “cởi trói” mình khỏi ràng buộc với xã hội, muốn khẳng định sự độc lập tuyệt đối của mình, con người ấy sẽ gạt bỏ một cách tàn nhẫn và hèn hạ tặng phẩm cao quý nhất mà cuộc đời đem lại cho nó - tình yêu.
Kết luận sơ bộ mà tác giả không nói ra, nhưng người đọc có thể rút ra từ tác phẩm của ông: không có tự do thì không còn con người, nhưng chỉ có tự do trong chân lí mới nâng cao con người, các con đường tự do khác đều dẫn nó đến bại vong. Tự do khó biết bao nhưng cũng tương xứng biết bao với phẩm giá con người!
“Trong khoảng 15 năm, từ 1865 đến 1880, Dostoievski viết nên những tiểu thuyết triết lí chủ yếu của mình: Tội ác và trừng phạt, Chàng Ngốc, Lũ người quỷ ám, Đầu xanh tuổi trẻ, Anh em nhà Karamazov. Sau chúng, nhân loại đã trưởng thành thêm một bước”. - Một nhà khoa học Nga thời Xôviết viết trong một cuốn sách bàn nhiều về quan hệ tinh thần giữa Dostoievski và Einstein.
Một sự đánh giá rất cao, nhưng không quá cao.



Năm tiểu thuyết nói trên, sáng tác trong 15 năm cuối đời của Dostoievski quả là một quần thể kiệt tác kì vĩ và độc đáo vô tiền khoáng hậu. Chúng chứa đựng những khám phá to lớn nhất của Dostoievski về con người, những ý tưởng sâu sắc về lẽ sống và những đường hướng hoàn thiện sự sống, những tiên đoán và cảnh báo lúc phát ra tưởng là huyễn hoặc, nhưng sự anh minh của chúng sẽ được các thế hệ mai sau khâm phục thừa nhận. Chúng là một vũ trụ nghệ thuật hết sức mới lạ đối với ý thức văn học cùng thời, có thể so sánh với vật lí hiện đại trong quan hệ với vật lí cổ điển. (Không phải ngẫu nhiên mà nhà sáng lập vật lí học hiện đại Einstein yêu Dostoievski đến thế, Dostoievski đã cho ông “nhiều hơn bất cứ một nhà tư tưởng nào, nhiều hơn Gauss”, nhà tiền khu của ông trong toán học). Về mặt loại hình, ai ai cũng cảm thấy chất cách tân rõ rệt của những tiểu thuyết ấy, nhưng chưa ai đưa ra được định nghĩa bao quát đầy đủ các đặc điểm cấu thành của chúng: “tiểu thuyết triết lí”, “tiểu thuyết tư tưởng”, “tiểu thuyết - bi kịch”, “tiểu thuyết phức điệu”.... - tất cả những giới thuyết ấy, mặc dù chúng đều đúng đắn và sâu sắc, vẫn không lột tả hết tính độc đáo sáng tạo của những kì đài nghệ thuật mang tên Dostoievski.
“Phép lạ” của những kiệt tác ấy càng nổi rõ hơn, nếu ta nhớ lại hoàn cảnh của nhà văn trong những năm ấy: những cơn động kinh liên tiếp (tần số đặc biệt cao trong những năm 1865-1871, trung bình 10 ngày một cơn, sau mỗi cơn Dostoievski không thể làm việc 3-4 ngày) và các bệnh kinh niên khác; nợ nần chồng chất (trong đó có khoản nợ lớn do tạp chí của anh em Dostoievski phá sản, nhà văn cam kết trả dần cả phần nợ của người anh quá cố) và sự truy lùng của các chủ nợ đã buộc Dostoievski phải trốn ra sống ở nước ngoài nhiều năm; những lo toan bề bộn cho gia đình và họ hàng... Cộng vào đấy là nỗi ham mê cờ bạc đã đeo đuổi Dostoievski gần 10 năm và nhiều phen đẩy ông đến cảnh khốn cùng, nhưng không có nó, chưa chắc ông đã viết nên một truyện dài, vừa là thiên kí sự vừa là một bài nghiên cứu tâm lí rất đặc sắc - Con bạc (1866), truyện này ra mắt độc giả cùng một lúc với Tội ác và trừng phạt.
Nhân vật nam chính trong chuyện - Aleksxei Ivanovich, một thanh niên làm gia sư cho một gia đình quý tộc Nga sống ở nước ngoài. Y có hai đam mê: mê giai nhân tiểu thư Polina, con gái riêng của vợ quá cố của ông chủ, và mê đánh bạc. Polina, một tâm hồn kiêu sa và bất hạnh, khinh rẻ y, ngay trước mắt y bắt tình với một công tử Pháp hào hoa phong nhã, nhưng càng bị khinh rẻ, y càng yêu giai nhân mãnh liệt hơn, một tình yêu-căm thù khá đặc trưng cho thế giới nghệ thuật của Dostoievski. Polina, thất vọng bởi người tình Pháp và trong gia cảnh rối bời, đến với y và nhanh chóng nhận ra rằng y không phải là của nàng hoàn toàn - một nửa tâm hồn y để ở sòng bạc. Y mê cờ bạc không phải vì mộng làm giàu, mà vì những cảm xúc cực mạnh, những khoái lạc đỏ đen của cuộc chơi. Với y, sống đồng nghĩa với chơi. Y không đánh đổi cuộc đời sóng gió thường nhật của con bạc khát nước lấy lối sống trưởng giả bình yên, khôn ngoan, cóp nhặt. So sánh mình với những người Pháp, Đức, Anh... tập hợp ở cái trung tâm cờ bạc quốc tế này, y nhận ra những đặc điểm thuộc bản tính dân tộc Nga của mình: quá phóng túng, không có phong độ và không biết tự kiềm chế. Aleksei Ivanovich là tiền thân của Dmitri Karamazov.
Ba năm sau Con bạc, giữa hai tiểu thuyết Chàng Ngốc và Lũ người quỷ ám, Dostoievski viết một thiên truyện tâm lí khác - Người chồng muôn thuở (1869). Một gã quý tộc thuộc xã hội thượng lưu Peterburg gần đến tuổi tứ tuần thấy chán ngán vô độ cuộc sống nhàn tản và hưởng lạc của mình. Hắn bắt gặp một người quen cũ, một viên chức từ tỉnh lẻ lên thủ đô tìm hắn, đấy là chồng của một người tình cũ mới qua đời của hắn. Người chồng này suốt đời đặt trọn niềm tin vào người vợ mà y đinh ninh là thủy chung, hiền thục, và chỉ khi vợ đã chết y mới khám phá ra rằng mình đã bao nhiêu lần bị lừa dối. Y quyết tâm tìm và trả thù những tình địch. Một “người chồng muôn thuở” đối đầu với một “tình nhân muôn thuở”, hai người căm ghét nhau đến không đội trời chung, nhưng dần dà cả hai đều nhận ra rằng họ vừa không chịu được nhau, vừa không thể sống không có nhau. Họ là một cặp song trùng, vừa đối nghịch vừa bổ sung nhau. Mỗi người một kiểu, song cả hai đều là nô lệ của phụ nữ, người chồng thì vì sự khâm phục và phục tùng vợ đã ăn vào máu thịt, còn người tình thì, như một Don Juan, không thể sống mà không chinh phục trái tim phụ nữ. Người chồng muôn thuở trong thâm tâm ghen tị với người tình muôn thuở, thèm khát vị trí của y, song người tình thì không khỏi lo ngại ngày nào đó sẽ rơi vào hoàn cảnh của người chồng.
Con bạc và Người chồng muôn thuở rõ ràng là hai tác phẩm không xoàng tí nào, song chúng không những bị che khuất bởi những tiểu thuyết vĩ đại của Dostoievski, mà chính tác giả cũng chẳng bao giờ nhắc đến chúng, một khi chúng đã được viết xong. Với tất cả sự hấp dẫn của chủ đề, tất cả những phân tích tâm lí rất tinh vi, tài tình, đây vẫn chỉ là ngoại vi của thế giới nghệ thuật Dostoievski. Ở Dostoievski, phân tích tâm lí không phải là mục đích tự thân, mà là phương tiện để khám phá thế giới tinh thần, thế giới của các tư tưởng, các tín niệm chiếm lĩnh tâm hồn con người và chi phối những hành vi của nó. Dostoievski là nhà tinh thần học nhiều hơn nhà tâm lí học. Chỉ cần so sánh ông, thí dụ, với S.Zweig hay M.Proust, là ta thấy rõ tất cả sự khác biệt giữa hai kiểu tài năng này.
(Còn nữa)
 Theo : Giáo sư Phạm Vĩnh Cư

Thứ Năm, 2 tháng 12, 2010

Thương nòi giống thần tiên giáng bút


"Cầu cơ" là một khái niệm khá phổ biến đối với đạo Cao Đài. Xung quanh nó là biết bao câu chuyện hư thực. Xin giới thiệu bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) về chủ đề này.
Trong các nghi lễ của người Việt thời trước, có một không gian nghi lễ khá đặc biệt rất đáng để ý là thiện đàn. Ở đấy diễn ra một hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh độc đáo là giáng bút - một hiện tượng văn hoá tâm linh có thực trong xã hội Việt Nam, tức là cầu Thánh - Thần - Tiên - Phật cho mình những bài thơ, thông qua một người có năng lực đặc biệt.
Song vì nhiều lý do mà giới nghiên cứu đã coi đó là một vùng cấm và không dành cho nó một sự quan tâm thích đáng, ngoại trừ hai học giả là Nguyễn Văn Huyên (Tục thờ cúng thần tiên ở Việt Nam, 1944) và Đào Duy Anh (Hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm, 1989).

Giáng bút là hiện tượng “nhập thần” trong đó thực hiện nghi lễ cầu cúng để mong muốn có sự phán truyền dạy dỗ của thần linh thông qua văn tự (Hán Nôm) mà thư viện Viện Hán Nôm hiện đang lưu trữ 254 cuốn thơ văn giáng bút, với hàng vạn bài thơ, bài văn.
Tài liệu có niên đại sớm nhất là năm 1825 được in tại đền Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, nay là di tích Việt Đông hội quán, số nhà 22 Hàng Buồm, Hà Nội. Về niên đại xuất hiện nhiều bản giáng bút nhất là các năm 1870 - 1898 và 1906 - 1911.
“Thuật bói tiên lấy cành đào làm thành hình mỏ hạc treo lên một cần trúc, lấy một cái sọt tre đựng đầy ắp cát sạch, đặt cần trúc bên cạnh rồi đốt bùa đọc phép, cái mỏ hạc tự nhiên chuyển động, vạch thành chữ trên cát”(Đường An Đan Loan Phạm gia thế phả - Phạm Đình Hổ).
Giáng bút là hiện tượng “nhập thần” trong đó thực hiện nghi lễ cầu cúng để mong muốn có sự phán truyền dạy dỗ của thần linh thông qua văn tự (Hán Nôm) mà thư viện Viện Hán Nôm hiện đang lưu trữ 254 cuốn sách, với hàng vạn bài văn thơ.
Năm 1825 là niên đại của tài liệu sớm nhất hiện biết trong kho sách Hán Nôm. Thế nhưng, Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) một danh sĩ, nhà khảo cứu nổi tiếng thời cuối Lê đầu Nguyễn, trong Đường An Đan Loan Phạm gia thế phả (A.909) có thuật chuyện ông ngoại của mình như sau: “Cụ có thuật bói tiên, thường lấy cành đào làm thành hình mỏ hạc treo lên một cần trúc, lấy một cái sọt tre đựng đầy ắp cát sạch, đặt cần trúc bên cạnh rồi đốt bùa đọc phép, cái mỏ hạc tự nhiên chuyển động, vạch thành chữ trên cát”. Lời thuật này rõ ràng cho biết ông ngoại của Phạm Đình Hổ là người thực hiện nghi lễ giáng bút cầu văn tự. Qua đây cho thấy, chúng ta có thể vẫn tìm thấy các văn bản giáng bút có niên đại sớm hơn năm 1825 là bản xưa nhất có trong thư viện Viện Hán Nôm.

Học giả Việt Nam đầu tiên quan tâm đến giáng bút có lẽ là Lê Quý Đôn. Trong khi đi sứ nhà Thanh (Trung Quốc) ông đã quan tâm tìm hiểu, sưu tầm được sách Âm chất văn chú. Năm 1839 Âm chất văn chú được khắc in theo bản cũ do Lê Quý Đôn mang về từ Trung Quốc. Sách dày chừng 350 trang in. Nhưng bản Âm chất văn chú in năm 1839 không phải là bản in giáng bút sớm nhất mà ta thấy được trong kho sách Hán Nôm.

Ngay từ năm 1825, tại đền Hà Khẩu, huyện Thọ Xương (Hà Nội) đã tổ chức khắc in bộ sách Quan Phu tử kinh huấn hợp khắc (AC. 408), 150 trang in. Sách này chép lời giáng bút của Quan Thánh đế quân (Quan Phu tử, Quan Vân Trường).

Suốt nửa cuối thế kỷ XIX, đã có nhiều thiện đàn được mở ra ở hầu khắp các tỉnh ở Bắc bộ: Hà Nội, Nam Định, Hà Đông, Sơn Tây, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Bình, Thái Nguyên, Hải Phòng, Ninh Bình, Hưng Yên, Phúc Yên...

Nội dung và hình thức thơ ca giáng bút càng về sau càng khác lúc ban đầu. Thời gian đầu là giáng bút của các vị thần của Đạo giáo Trung Quốc như Văn Xương Đế quân, Quan Thánh Đế quân... Các bài thơ văn giáng bút này được in trong một quyển sách và chúng không phải là văn bản có được sau một cuộc giáng bút cầu văn tại Việt Nam. Hay nói khác đi, nó chỉ như một cuốn danh ngôn mà những người tu đạo tâm niệm. Nội dung, do vậy mang tính chung chung. Văn giáng bút ở đây đều bằng chữ Hán, được diễn đạt bằng thơ luật. Về sau, do yêu cầu mới của đời sống xã hội, thơ giáng bút đã thay đổi. Các vị thần linh giáng bút không chỉ là có nguồn gốc Trung Quốc nữa, mà còn có các tiên nho liệt thánh Việt Nam, như Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Trưng Vương, Liễu Hạnh... Thơ do yêu cầu phải đến với quảng đại quần chúng nên đã có nhiều thơ lục bát, song thất lục bát. Văn giáng bút cũng phần nhiều không dùng chữ Hán mà dùng chữ Nôm. Các bản sách văn giáng bút cũng được sưu tập ngay từ đàn giáng bút và đưa đi khắc in ngay.

Có tình hình ấy là do bối cảnh chính trị, xã hội Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Ví dụ như khi các sĩ phu Hà thành lập ra hội Hướng Thiện, do Tiến sĩ Vũ Tông Phan làm Hội trưởng thì mục tiêu đặt ra là: Hướng mọi người làm việc thiện, xây dựng một lối sống tốt đẹp, theo chuẩn mực của truyền thống. Về sau, hội Hướng Thiện mở mang thêm các hoạt động văn hoá như: tu sửa tôn tạo di tích đền Ngọc Sơn...

Thực trạng kinh tế, xã hội Việt Nam từ khi Gia Long lên ngôi đến khi Tự Đức cắt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp tuy đang trong giai đoạn xây dựng kiến thiết nhưng đã dần được củng cố. Việt Nam là một nước độc lập, thống nhất và phát triển có đường hướng. Triều đình Tự Đức sau nhiều “khự nự” đã hoàn toàn bất lực trước sự lấn lướt của Thực dân Pháp và sự “đe dọa” của văn minh phương Tây. Trong triều đình ấy, nội bộ cũng đã có sự phân hóa, chia ra làm hai phái rõ rệt: chủ chiến và chủ hòa. Vua Tự Đức thì ở phái chủ hòa. Một quan chức trong triều là Dương Khuê dâng sớ đề nghị đánh Pháp. Vua đã phê vào sớ: “ Bất thức thời vụ”, và đày ông đi sơn phòng, trông nom việc khai khẩn ở miền sơn cước.

Chỉ sau khi Tự Đức băng, thì phái chủ chiến trong đám quần thần mới dần chiếm ưu thế, bởi được vua Hàm Nghi và một trọng thần quyền thế là Trương Đăng Quế làm hậu thuẫn. Năm 1885 phong trào Cần Vương được phát động chính thức và phát triển sâu rộng khắp Trung kỳ, Bắc kỳ.
Một giá trị rất đặc biệt của thơ văn giáng bút cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là dưới ảnh hưởng của các phong trào yêu nước, đã làm phát khởi những biểu tượng mới trong văn hóa Việt Nam mà trước đó ít khi được nhắc đến. Đó là những biểu tượng về Quốc hồn, Quốc túy, Quốc dân, Nòi giống, Giống Lạc Hồng, Con Rồng Cháu Tiên được nhắc đến rất nhiều, rất khẩn thiết và nhằm đến đối tượng là các tầng lớp nhân dân lao động.
Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 254 cuốn thơ văn Nôm giáng bút lời của Tiên - Phật –Thánh - Thần sưu tập từ 98 thiện đàn nằm ở hầu hết các tỉnh ở châu thổ Bắc bộ. Nội dung thơ văn giáng bút cũng chính là nội dung, mục đích hoạt động của các thiện đàn do các nhà Nho chủ trương. Đó là một chương trình tuyên truyền rộng khắp suốt thời gian cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tập trung vào hai vấn đề: Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi và Chấn hưng văn hóa dân tộc.
Phong trào Cần Vương đi vào suy thoái bằng sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Sơn do nhà sĩ phu khoa bảng Phan Đình Phùng làm thủ lĩnh.
Từ sau năm 1897 khởi nghĩa Hương Sơn thất bại, nhiều nơi trong nước đã từng có những cuộc khởi nghĩa hay nổi dậy lẻ tẻ. Đòi hỏi của lịch sử về cứu nước, giành lại giang sơn tổ quốc trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.

Thơ văn yêu nước thời kỳ này nhằm đến một quần chúng nhân dân đông đảo. Và để phù hợp với việc kêu gọi lòng yêu nước và tự hào dân tộc, các hình thức diễn đạt quen thuộc với đông đảo bình dân được lựa chọn. Thơ lục bát và song thất lục bát được ưa dùng. Những lối nói ẩn dụ về nòi giống, tổ quốc, giang sơn... giàu sức biểu cảm được dùng phổ biến trong các lời văn giáng bút. Các sinh hoạt văn hoá, văn nghệ trong dân gian có lồng ghép thêm những nội dung mới, nhằm thức tỉnh lòng yêu nước.

Trong các sinh hoạt văn hoá, văn nghệ dân gian, thì kê đàn giáng bút là một hoạt động tín ngưỡng đặc biệt. Ở đó con người giao tiếp với thế giới của Thánh - Thần - Tiên - Phật qua một người có biệt năng. Người này sẽ chuyển các thông điệp bằng văn thơ có nội dung khuyên bảo, răn dạy, kêu gọi của Thánh, Thần cho con người trên cõi trần gian. Hơn nữa giáng bút lại là một hoạt động tín ngưỡng ngưng kết nhiều thành tố đặc sắc của văn hoá dân gian như: thơ ca dân gian, múa dân gian, nghi thức tín ngưỡng... Tham gia vào giáng bút là tham gia vào tín ngưỡng, tham gia vào sáng tạo văn hoá văn nghệ dân gian nhằm tiếp xúc với một tiên giới trong tâm tưởng.

Cũng chính vì hoạt động giáng bút là một hoạt động mang tính tổng hợp như vậy nên đã thoả mãn được nhiều giai tầng công chúng cho dù là các nhà khoa bảng, học hành đỗ đạt cao, nhà nho ở nông thôn, cho đến tầng lớp tiểu thương nơi phố thị, nông dân chốn quê mùa. Sức sống của giáng bút cũng ở đấy. Và sức sống của việc tuyên truyền yêu nước cũng ở đấy. Nó nương vào tôn giáo, tín ngưỡng, nương vào công xã nông thôn để hoạt động và thúc giục quần chúng.

(còn nữa)