Đây là tham luận của Phạm Việt Hưng
tại Hội thảo “Minh triết, một giá trị văn hoá nhân loại đang phục hưng”, Hànội
Tháng 09.2009. Abstract: We are living in modern civilization with so many
magnificent achievements of science and technology. Many feel pround of human
evolution and profoundly believe in a brighter and brighter future. But Albert
Einstein once said: Take care not to make the intellect our god; it has …
powerful muscles, but no personality. What did he mean? Why did he say so?
This approach, “Where is the genuine civilization?”, attempts to find the
answers.
Mở đầu cuốn
“Những môn đệ của Pythagoras”[1], Margaret Wertheim, nữ ký giả
khoa học nổi tiếng của tờ The New York Times, nêu lên một nhận xét đáng chú ý:
-Thế kỷ thứ
6 trước CN là một bước ngoặt lịch sử trong nền văn minh của nhân loại, bởi nó
đánh dấu sự ra đời gần như đồng thời của các nhà tư tưởng thuộc hàng vĩ đại
nhất của mọi thời đại, với những triết thuyết mang tính định hình cho nền văn
minh của loài người chạy dài suốt từ Á sang Âu: Khổng tử và Lão tử ở Trung Hoa,
Đức Phật ở Ấn Độ, và trường phái triết học Cổ Hy Lạp mà Pythagoras là nhân vật
tiêu biểu.
Tuy nhiên, điều đáng chú ý nhất không phải là vấn đề
thời điểm, mà là đặc trưng khác biệt về xu thế của hai dòng văn minh Đông – Tây
ngay từ buổi trứng nước:
-Trong khi ở
Đông phương, Lão giáo và Phật giáo lo tìm kiếm “con đường giải thoát” (ways of
liberation), Khổng giáo lo xây dựng những nguyên lý đạo đức làm nền tảng tinh
thần cho xã hội, thì tại Tây phương, một cuộc cách mạng kiểu khác đã xẩy ra:
Các nhà tư tưởng Hy Lạp bắt đầu từ bỏ những giải thích huyền bí về thế giới
xung quanh để chuyển sang tìm kiếm những nguyên nhân vật chất của các hiện
tượng tự nhiên.
Tóm lại theo
Wertheim, ngay từ đầu văn minh Đông phương cổ truyền đã có xu thế thiên về TÂM
(thông qua chiêm nghiệm trực giác), trong khi văn minh Tây phương có xu thế
thiên về VẬT (thông qua quan sát, đo đạc, chứng minh). Nếu TÂM thuộc Âm và VẬT
thuộc Dương thì văn minh Đông phương cổ truyền là văn minh trội Âm, văn minh
Tây phương trội Dương.
Nhưng xu thế
phân cực đã dần dần bị thay đổi do những biến thiên thăng trầm của lịch sử:
Thắng lợi áp đảo của khoa học thực nghiệm cùng với chủ nghĩa duy lý trong vài
ba thế kỷ gần đây, và đặc biệt sau những thế kỷ các quốc gia Tây phương bành
trướng thuộc địa, văn minh Tây phương đã trở thành nền văn minh thống trị trên
phạm vì toàn cầu, với nội dung ngày càng thiên lệch rõ rệt về văn minh vật
chất, văn minh khoa học, văn minh tính toán, văn minh thực dụng: Mọi thứ đều
được số hoá, kể cả Cái Đẹp (!!!).
Đã có một
thời người ta tưởng nền văn minh này là duy nhất đúng, nhưng những bản tin thời
sự hàng ngày trên toàn thế giới cho thấy chủ nghĩa thực dụng vật chất đang đẩy
con người tới một cuộc sống cạnh tranh ngày càng vội vã, bất an – bất an cả
trong đời sống xã hội lẫn trong cuộc sống nội tâm.
Trong bối
cảnh này, ngay tại Tây phương – nơi văn minh vật chất phát triển cực thịnh – đã
xuất hiện một xu thế phê phán sự khiếm khuyết của nền văn minh này, thậm chí
kết tội nền văn minh này có thể sẽ dẫn loài người tới chỗ diệt vong nếu không
có một cơ chế đủ mạnh để kìm hãm.
Cơ chế kìm
hãm đó là cái gì, nếu không phải là nền Minh triết Đông phương cổ truyền vốn
lấy TÂM làm giá trị cốt lõi?
Thực tiễn
cho thấy đã đến lúc nhân loại cần thức tỉnh để thấy rõ đâu là nền văn minh đích
thực: Nền văn minh đích thực phải là sự chắt lọc tổng hoà của hai nền văn minh
Đông và Tây, hoặc nói chính xác hơn, sự chắt lọc tổng hoà của hai nền văn minh
TÂM và VẬT.
1* Cuộc đối
thoại giữa hai nền văn minh:
Nền văn minh
Tây phương vốn dựa trên căn bản nhị nguyên luận (dualism) – phân biệt chủ thể
với khách thể, trong đó chủ thể luôn luôn có xu hướng chinh phục khách thể. Đó
là lý do vì sao người Tây phương có xu hướng thích chinh phục và rất giỏi trong
chinh phục: chinh phục thiên nhiên (tìm tòi khám phá khoa học, khám phá địa
lý,…), và chinh phục thiên hạ (giành giật thuộc địa, phổ biến và truyền bá văn
hoá, khoa học, tôn giáo,…). Đó là những sự thật chẳng có gì ngạc nhiên, vì đã
được lịch sử chứng minh rõ ràng. Điều đáng ngạc nhiên là ở chỗ nhiều người
trong chúng ta – những người sinh ra trong cái nôi Đông phương – nhiều khi lại
không ý thức được giá trị của nền văn minh truyền thống của tổ tiên mình, do đó
sẵn sàng thoả mãn với sự chinh phục của nền văn minh Tây phương, mặc nhiên coi
đó là nền văn minh toàn cầu (global civilisation). Nếu nền văn minh Tây phương
hiện đại tự nó đã hoàn chỉnh thì có lẽ không có gì để bàn. Vấn đề là ở chỗ nó
không hoàn chỉnh, nếu không muốn nói rằng nó còn chứa đựng rất nhiều yếu tố
lệch lạc.
Trong khi đó, nền văn minh Đông phương cổ truyền dựa
trên căn bản nhất nguyên luận (monism) – chủ thể và khách thể là một: Âm Dương
tuy đối lập nhưng hài hoà trong Thái Cực. Do đó có thể thấy ngay rằng tư tưởng
Đông phương cổ truyền sẽ hạn chế mọi xu hướng phân cực thái quá của Tây phương.
Gia Cát
Lượng thời Tam Quốc ở Trung Hoa có tài chế tạo máy móc và vũ khí chẳng kém gì
người La-Mã ngày xưa. Nhưng sau khi dùng hoả công đốt cháy trong phút chốc hàng
vạn quân sĩ của Mạnh Hoạch, ông đã ngửa mặt lên trời mà than rằng việc ác đó sẽ
làm giảm tuổi thọ của chính ông. Đó là đặc điểm tư duy Đông phương – giết kẻ
thù đến chỗ tuyệt diệt thì cũng chính là giết mình, bởi vạn vật là Một. Có
người phản bác ý kiến này bằng cách viện dẫn ra hàng loạt ông vua tàn bạo giết
người không ghê tay trong lịch sử cổ đại và trung đại Trung Hoa – một trong những
cái nôi của Minh triết Đông phương cổ truyền – để khẳng định rằng Đông
phương cổ truyền cũng chẳng có gì đáng phải học tập.
Thiết nghĩ,
không ai có thể phủ nhận những sự thật lịch sử, nhưng cần phải nói rõ rằng các
bạo chúa trong lịch sử Đông phương không phải là đại diện của Minh triết Đông
phương. Họ chưa bao giờ được lịch sử ca ngợi, thậm chí họ luôn luôn bị coi là
những bạo chúa coi thường Minh triết. Đó chính là lý do để Khổng tử chưa bao
giờ thành công trong việc thuyết phục các vua chúa áp dụng kế sách của ông.
Khổng tử trở thành người Thầy của phương Đông là nhờ ở cái Đức và những tư
tưởng hợp Đạo Tự Nhiên của ông đã thấm đẫm vào tầng lớp trí thức uyên bác nhất,
rồi từ đó lan rộng ra khắp bàn dân thiên hạ. Vì thế, khi nói đến việc kết hợp
hai nền văn minh Đông + Tây, phải nói rõ đó là sự chắt lọc tổng hoà những giá
trị tinh tuý của cả hai nền văn minh đó.
Điều quan
trọng nhất của Minh triết Đông phương cổ truyền là ở chỗ nó luôn luôn điều
chỉnh mọi biến thiên về vị trí trung hoà – vị trí cân bằng bền của mọi dao
động. Đó là cái gốc Đạo Trung Dung của Khổng-Mạnh. Đạo Trung Dung chỉ ra rằng
mọi biến dịch phải trở về cân bằng ổn định mới thuận Đạo Càn Khôn, bằng không
là trái đạo. Khủng hoảng môi trường hiện nay là một biểu hiện điển hình của sự
trái đạo, mà trái đạo sẽ dẫn tới nguy cơ đe doạ sự tồn vong của chính loài
người. Trong bài “Đạo của đất” trên Khoa Học & Tổ Quốc tháng 05-2009, tác
giả Trần Sáng đã vận dụng những nguyên lý của Kinh Dịch – một thành tựu bất hủ
trong nền Minh triết Đông phương – để chỉ ra những hành động của con người trái
với đạo của đất, rồi đặt câu hỏi buộc mọi người phải suy ngẫm: “Đạo-Lý gì
đang chi phối hành động của chúng ta? Thế giới này đang vận hành theo
nguyên lý nào?”.
Trong khi
đó, triết học Tây phương, tuy cũng nói đến quy luật biện chứng “lượng đổi chất
đổi”, nhưng thường chỉ mô tả sự biến đổi theo một chiều nhất định – chiều được
gọi là “tiến hoá” (evolution). Cái gì cũng tiến hoá: Vũ trụ tiến hoá, sinh giới
tiến hoá, loài người tiến hoá, rồi thậm chí đang nói tới robots tiến hoá (!!!)
… Phải nói là có cả một thứ chủ nghĩa tiến hoá! Vì chú trọng thái quá đến khía
cạnh tiến hoá một chiều, cái sau phủ định cái trước, cái sau hơn hẳn cái trước,
vì thế văn minh Tây phương thường đẩy sự đua tranh tới mức cùng cực, vô giới
hạn, dẫn tới sự cùng kiệt mọi tài nguyên dự trữ, cả tài nguyên thiên nhiên lẫn
sức lực của chính con người, do đó làm cho Tự Nhiên và xã hội mất cân bằng, dẫn
tới khủng hoảng, mất ổn định, mà bằng chứng rõ ràng nhất là hai cuộc chiến
tranh thế giới trong thế kỷ 20 vừa qua.
Điển hình
của chủ nghĩa tiến hoá là Học thuyết Darwin. Năm nay thế giới kỷ niệm 200 năm
ngày sinh của Darwin, sách vở tôn sùng Darwin như một ông thánh xuất hiện khắp
nơi. Nhưng có thật là sinh giới tiến hoá như Darwin mô tả hay không thì đó vẫn
còn là một dấu hỏi rất lớn gây nên tranh cãi rất nhiều trong nội bộ giới sinh
học. Thực tế tại các nước Tây phương hiện nay có rất nhiều ý kiến khoa học sâu
sắc phản bác lại Darwin, chỉ ra những thiếu sót và sai lầm của Darwin,
thậm chí chứng minh rằng Học thuyết Darwin chỉ là một mô hình giả tưởng rồi áp
đặt những giải thích thuận chiều với mô hình giả tưởng đó, thay vì là khoa học
đúng nghĩa, nhưng rất tiếc là những ý kiến phản bác này hầu như chưa được phổ
biến ở nước ta. Đó là chưa nói đến những phân tích mổ xẻ học thuyết này dưới
những góc độ khác. Dưới ánh sáng của Minh triết Đông phương cổ truyền,
Học thuyết Darwin xem ra khó được chấp nhận, bởi lẽ nó nhìn con người một cách
đơn giản và phiến diện như một động vật tiến hoá ở cấp cao nhất, có nghĩa là
chỉ nhìn thấy con người thể xác, thay vì con người như định nghĩa của Pascal: “Con
người là một cây sậy, một thứ yếu ớt nhất trong tự nhiên, nhưng là một cây sậy
có tư tưởng”. Thật vậy, Học thuyết Darwin sẽ không bao giờ giải thích được
những giá trị NGƯỜI nhất của con người, đó là tư tưởng và LÒNG NHÂN! Khái niệm
lòng nhân tự bản thân nó đã không thể dung hoà được với khái niệm đấu tranh
sinh tồn vốn được coi là động lực của tiến hoá!
Có lẽ đến
đây không thể không nhắc đến bài báo “What Darwin taught Hitler?” (Darwin đã
dạy Hitler cái gì?) của Grenville Kent[2] trên tạp chí SIGNS of the
Times của Úc, số tháng 10 năm 1996, trong đó tác giả cho biết chính Darwin đã
viết trong cuốn On the Origin of Species (Về nguồn gốc các loài) như
sau: “Trong một tương lai không xa lắm, có thể đo bằng số thế kỷ, các chủng
tộc văn minh của loài người hầu như sẽ tiêu diệt và thay thế các chủng tộc dã
man trên thế giới”.
Nếu những gì
Kent nói là chính xác thì có lẽ đây là thí dụ điển hình cho thấy sự khác biệt
cơ bản giữa tư tưởng Tây phương hiện đại với Minh triết Đông phương cổ truyền.
Tạp chí
SIGNS of the Times số Tháng 10-1999 cũng có đoạn viết về Thuyết tiến hoá: “Trong
phạm vi sinh học cũng vậy, mọi điều xẩy ra không còn thích hợp với
kế hoạch của các nhà khoa học nữa. Anthony O’Hear, giáo sư Đại học
Bradford, trong cuốn “Beyond Evolution, Human Nature and The Limits of
Evolutionary Explanation” đã lý luận rằng thuyết tiến hoá có những
hạn chế của nó. Nó không đưa ra một lý lẽ thoả đáng để giải thích
những khía cạnh đặc biệt của đời sống con người như vấn đề hiểu
biết, cảm xúc về đạo đức, và sự ngưỡng mộ cái đẹp”.
Để thấy rõ
hơn sự khác nhau giữa tư tưởng tiến hoá của Darwin với tư tưởng Minh triết Đông
phương cổ truyền, độc giả có thể tham khảo cuốn “Hậu Hắc Học” của một
học giả Trung Quốc đầu thế kỷ 20 (đã xuất bản bằng tiếng Việt), trong đó tác
giả kịch liệt phê phán Học thuyết Darwin đã thiên lệch quá đáng vào quy luật
đấu tranh sinh tồn. Theo tác giả này, sinh giới tồn tại và phát triển không chỉ
dựa vào đấu tranh sinh tồn, mà đồng thời còn dựa vào chung sống hoà bình, nương
tựa lẫn nhau để cùng tồn tại. Nhận định này thể hiện rõ ảnh hưởng tư tưởng Minh
triết Đông phương cổ truyền: Âm-Dương hoà hợp và bổ sung cho nhau thay vì xung
khắc loại trừ lẫn nhau.
“Mặt yếu”
của Minh triết Đông phương cổ truyền thì mọi người đã biết rõ: Nó không giúp
ích trực tiếp trong việc chế tạo ra súng ống, đạn dược, xe tăng, máy bay, tển
lửa, bom nguyên tử, v.v. Đó là lý do để chủ nghĩa thực dân làm vương làm bá
trong vài thế kỷ qua, mãi đến giữa thế kỷ 20 mới chấm dứt. Ngày nay Đông phương
đã tiếp thu văn minh Tây phương, và đã vươn lên ngang hàng với Tây Phương về
văn minh vật chất. Nhưng tiếc thay, dường như quá bận rộn với việc đuổi kịp Tây
phương về văn minh vật chất nên Đông phương lại đã và đang quên lãng nền văn
minh cổ truyền của chính mình.
Riêng Việt
Nam, chúng ta đã “Tây phương hoá” ngay từ ngôn ngữ: Chữ quốc ngữ là một thành
tựu “Trời cho”, giúp cho việc phổ cập văn hoá tới đại chúng một cách dễ dàng,
đó là điều không ai có thể phủ nhận. Nhưng nếu chúng ta không có chính sách
thích hợp để bảo vệ và duy trì vốn văn hoá Hán-Nôm mà cha ông ta đã dày công
xây đắp qua hàng bao thế kỷ thì đó sẽ là một mất mát văn hoá không gì có thể bù
đắp nổi. Nhu cầu phục hưng nền văn hoá cổ truyền là một nhu cầu bức thiết, đặc
biệt trong bối cảnh hiện nay, khi nền văn minh vật chất trên toàn thế giới
dường như đang đạt tới thái cực – khoa học đang tạo ra những sản phẩm “sánh
ngang với kỳ công của Thượng Đế” (!), tức là lúc nền văn minh vật chất đang bộc
lộ nguyên hình mặt trái của nó.
2* Mặt trái
của tấm huân chương:
Nếu coi nền
văn minh Tây phương là một đống huân chương sáng chói thì có lẽ chiếc huân
chương khoa học là to nhất, lấp lánh nhất.
Nhưng chính
các học giả Tây phương ngày nay là những người thấy rõ mặt trái của tấm huân
chương hạng nhất đó hơn ai hết. Tạp chí SIGNS of the Times của Úc tháng 10-1999
viết: “Mọi tấm huân chương đều có mặt trái, mọi đám mây đều có ánh bạc.
Những ngạn ngữ này luôn luôn đúng. Khoa học không phải là một ngoại lệ …”.
Vậy mặt trái
của tấm huân chương khoa học có hình thù ra sao?
Trong dịp
chuẩn bị bước vào thiên niên kỷ thứ 3 và thế kỷ 21, nhà xuất bản Marshall
Editions của Anh đã cho xuất bản một cuốn sách đồ sộ nhan đề “Ideas that shaped
our world” (Những tư tưởng định hình thế giới của chúng ta), nhằm tổng kết
thành tựu của nhân loại từ thời thượng cổ cho đến tận ngày nay trên mọi phương
diện, từ chính trị xã hội đến văn hoá, nghệ thuật, từ khoa học đến triết học,
v.v… Đó là một cuốn sách quý mà mọi tủ sách nên có.
Mở đầu phần
khoa học, cuốn sách viết:
“Ngay từ
cuối thế kỷ 19, người ta đã sớm tưởng rằng, với sự kỳ diệu của khoa học, con
người có thể sẽ biết được mọi thứ và sẽ củng cố vị trí của mình như những chủ
nhân ông thực sự của Vũ Trụ. Một kỷ nguyên hoàn toàn mới của công nghiệp đã ra
đời, dựa trên các khám phá khoa học – động cơ đốt trong, đường sắt, điện,…
Nhưng hai trái bom nguyên tử rơi xuống Hiroshima và Nagasaki năm 1945 đã đánh
dấu một cột mốc đen tối với chủ nghĩa lạc quan đó. Chúng ta đã thực sự trở
thành chủ nhân ông của hành tinh, nhưng cũng là chủ nhân của sự tàn phá – sử
dụng các hạt nhỏ nhất mà khoa học đã biết, chúng ta đã tạo ra một cuộc khủng
hoảng toàn cầu chưa từng thấy. Ngày nay chúng ta đang phải chứng kiến một xu
thế chống đối lại khoa học. Xu thế này kết tội rằng chúng ta đang lao xuống vực
thẳm trong một tương lai chỉ toàn lặp lại những vấn nạn cố hữu của bệnh tật,
đói nghèo và chiến tranh. Việc đốt nóng bầu khí quyển, vũ khí hoá học, nguy cơ
bùng nổ chiến tranh hạt nhân, bệnh dịch như ebola, AIDS, … tất cả những điều
này đều là sản phẩm song hành (byproducts) của khoa học trên con đường phát
triển”[3].
Dường như
cảm thấy viết như thế chưa đủ, cuốn sách đó đã giáng một đòn chí tử vào những
người vẫn đang bị loá mắt bởi ánh hào quang khoa học bằng cách dẫn ra lời của
Albert Einstein, mà bài viết này đã lấy làm đề từ ở trên: “Hãy thận trọng
đừng biến trí tuệ thành chúa của chúng ta; nó có sức mạnh cơ bắp, nhưng phi
nhân tính”[4].
Chữ “trí
tuệ” trong di huấn của Einstein nên được hiểu đó là khoa học, là tấm huân
chương lớn nhất trong nền văn minh Tây Phương.
Đọc giả hẳn
đã biết rằng với việc khám phá ra công thức E = mc2, Einstein được
coi là cha đẻ của khoa học nguyên tử. Với tư cách đó, ông đã được tín nhiệm để
thay mặt cho giới khoa học gửi thư cho tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt, khuyên
chính phủ Mỹ nên nhanh chóng giành “thế thượng phong” trong cuộc chạy đua chế
tạo bom nguyên tử ở Mỹ.
Nhưng than
ôi, hai trái bom nguyên tử đầu tiên – tác phẩm của những nhà vật lý tài năng
nhất tại Trung Tâm Los Alamos của Mỹ – đã rơi xuống đất Nhật, giết hại hàng vạn
dân lành chỉ trong chớp mắt, để lại một đám mây đen vĩnh viễn trong lịch sử
nhân loại. Einstein đã rơi vào nỗi ám ảnh của tội ác mà dường như ông đã dự
phần quan trọng. Đó là bi kịch lương tâm trong suốt phần đời còn lại của ông.
Những năm cuối
đời, Einstein đã hoạt động rất tích cực trong phong trào chống phổ biến vũ khí
hạt nhân, đến nỗi FBI đã lập hồ sơ theo dõi (hồ sơ này gần đây đã được bạch
hoá).
Dường như
Einstein muốn hoạt động xã hội để chuộc lại nỗi đau lương tâm mà ông phải ráng
chịu. Có lẽ chính trong hoàn cảnh đó mà Einstein đã đưa ra lời cảnh tỉnh bất hủ
nói trên, nhằm vạch rõ mặt trái của tấm huân chương khoa học. Ngắm nhìn chân
dung ông những năm cuối đời, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy dưới mái tóc trắng
“phi-lô-dốp” (Philosophe) là đôi mắt sáng tinh anh nhưng luôn luôn buồn và trầm
tư. Bên cạnh các phương trình, chắc chắn đó là những trầm tư về thân phận con
người.
Nhiều sách
tiểu sử đều viết rằng ông không thích người đời gọi mình là nhà vật lý. Ông tự
coi mình là nhà tư tưởng. Cuối năm 1999, tạp chí TIME bầu Einstein là “nhân vật
thế kỷ” (person of the century), vì ảnh hưởng quá lớn của ông đối với nền văn
minh hiện đại. Điều này hoàn toàn xứng đáng. Nhưng TIME ít nói đến ý nghĩa bi
kịch trong đời Einstein. Có lẽ đó là một thiếu sót lớn, bởi vì thực ra bi kịch
đó cũng là bi kịch của nhân loại và đặc biệt, đó là bi kịch của nền văn minh
vật chất.
Bi kịch của
Einstein đâu phải duy nhất. Giải thưởng Nobel ra đời cũng chính là một phương
cách để Alfred Nobel cứu chữa cho nỗi đau lương tâm của ông khi phải chứng kiến
phát minh của mình bị sử dụng vào mục đích chống nhân loại đó thôi.
Dường như
nhậy cảm với nỗi bất trắc của tương lai, năm 1903, Pierre Curie đã lên tiếng
khẩn thiết kêu gọi nhân loại hãy nhớ đến tư tưởng của Nobel: “Tôi thuộc
trong số những người noi gương Nobel, mong ước khám phá của mình không bao giờ
bị sử dụng vào mục đích chống nhân loại”[5]. Nhưng thật đau lòng, lời khẩn
thiết của Curie đã bị phản bội: khám phá của vợ chồng Curie là một trong những
khám phá mở màn của khoa học nguyên tử, nhưng năng lượng nguyên tử đã được sử
dụng lần đầu tiên vào mục đích chống nhân loại. Trước Curie vài thế kỷ,
Francois Rabelais đã từng cảnh báo: “Khoa học vô lương chỉ là sự hư nát của
linh hồn!”[6]. Khó có thể tưởng tượng ngay
từ thế kỷ 16, khi khoa học chưa lộ diện mặt trái của nó rõ rệt như hiện nay,
Rabelais đã có thể đưa ra những lời cảnh báo tiên tri như vậy.
Nhưng dường
như hậu thế không đếm xỉa tới lời tiên tri đó. Khi bị chất vấn về tác hại của
trò chơi điện tử đối với trẻ em, một ông chủ hãng điện tử Nhật Bản trả lời: “Nó
cũng như con dao nhà bếp thôi, có thể rất tiện lợi, mà cũng có thể rất có hại.
Con dao không có lỗi. Lỗi là ở người dùng nó”. Câu trả lời phỉ phủi trách nhiệm
này thực ra đã phơi bầy bản chất của khoa học: Khoa học chỉ là một phương tiện,
một công cụ, nó không chịu trách nhiệm về nhân tính như Einstein đã nói. Đây
chính là đặc điểm nổi bật của nền văn minh vật chất Tây phương. Nhưng thật là
bi kịch khi con người ngày nay lại thoả mãn với cái vốn hiểu biết khoa học đó,
với nền văn minh Tây phương đó, và coi thế là đủ! Đó là thói tự phụ nguy hiểm
dẫn tới sự suy thoái văn hoá.
Tạp chí
SIGNS of the Times bình luận: “Mối nguy hiểm lớn nhất của tấm huân chương
khoa học có lẽ không phải là vũ khí hạt nhân, vũ khí sinh học, sự huỷ hoại môi
trường, mà ở chỗ nó mang lại thói tự cao tự đại quá đáng của con người”[7]. Cái tự phụ vênh vang của một
vài cá nhân các vị học giả nào đó có lẽ không đáng nói, điều đáng nói là khi
cái tự phụ biến thành một ý thức hệ của một đám đông, của một tầng lớp có nhiều
ảnh hưởng trong xã hội thì nó sẽ trở nên hết sức nguy hiểm, bởi vì nó dám bất
chấp mọi quy luật của tạo hoá, tức là bất chấp Đạo Càn Khôn.
Trong bài
“Đâu là lời giải của bài toán đạo đức?” trên KH&TQ số 3+4 tháng 02-2008,
tôi đã đặt những dấu hỏi lớn đối với lương tri khoa học trong thời đại của
chúng ta:
Nếu khoa học
được coi là một bộ phận của văn hoá thì tại sao một nhà khoa học như Werner
Heisenberg, một trong những cha đẻ của Cơ Học Lượng Tử, lại có thể cam tâm làm
tay sai trung thành cho chủ nghĩa phát xít?[8] Chính Heisenberg chứ không
phải ai khác, là người lãnh đạo chương trình chế tạo bom nguyên tử của Hitler.
Rất may là nghiên cứu của Heisenberg bị thất bại, nếu không thì thế giới sẽ ra
sao? Ai sẽ phải trả giá nếu chương trình nghiên cứu của Heisenberg thành công?
Lúc đó nhân loại sẽ đánh giá Heisenberg ra sao? Khi đó ông sẽ là một quỷ dữ hay
một thiên thần?.
Trong thâm
tâm rất nhiều nhà khoa học hiện nay, Heisenberg vẫn là một “ông thánh khoa học
số 2” sau Einstein. Tại sao một tên cai tù trong các trại giam của Hitler bị
coi là một tội phạm chiến tranh, còn những nhà bác học cung cúc tận tụy trong
việc nghiên cứu chế tạo những công cụ giết người khủng khiếp nhất cho Hitler
lại vẫn được ngự trên ban thờ của khoa học? Sự phán xử của khoa học không đếm xỉa
tới lương tri hay sao? Phải chăng đó chính là cái mà Vương Sóc, tác giả cuốn
“Người đẹp tặng ta thuốc bùa mê”[9] đã phải dằn giọng mà nói rằng
“Sự tàn nhẫn vô liêm sỉ nhất thế giới này đều do trí lực gây nên. Con người
có thể dùng trí tuệ đi làm những việc vô liêm sỉ”?
Nhưng trước
cám dỗ vật chất, lương tri khoa học có vẻ như ngày càng trở thành món hàng xa
xỉ ! Một trong những lĩnh vực bị cám dỗ mạnh nhất hiện nay là nghiên cứu
tế bào gốc (stemcells), vì tế bào gốc sẽ cho phép tạo ra các mô dùng trong y
học phẫu thuật lắp ghép các cơ phận của con người, phục vụ cho những bệnh nhân
tỷ phú trên thế giới.
Tại một công
ty nghiên cứu tế bào gốc (stemcells) ở California, sau khi thành công trong thí
nghiệm cấy não người vào não chuột, chuẩn bị thí nghiệm ngược lại là cấy não
chuột vào não người, người chủ trì đề tài là Irving Weissman, giáo sư Đại học
Stanford, bị báo chí chất vấn về nguy cơ thí nghiệm này sẽ xoá nhoà ranh giới
giữa động vật và con người, Irving trả lời gọn lỏn: “Vấn đề bạn lo lắng
thuộc phạm trù của các nhà đạo đức học, còn giới khoa học chúng tôi không thể
quy định đâu là giới hạn nghiên cứu”[10].
Tế bào gốc
tốt nhất là tế bào bào thai. Vì thế, ngoài các bào thai có thể có bằng những
con đường mà luật pháp không cấm, các trung tâm tế bào gốc đều nghĩ tới mọi
phương pháp khả dĩ miễn là đạt được mục đích, trong đó có một phương pháp hữu
hiệu là nhân bản vô tính để tạo ra bào thai người – nguồn tế bào gốc vô tận!
Các bào thai này không cần để cho sống sót thành con người đàng hoàng như chúng
ta, mà chỉ cần ngâm trong các bình thí nghiệm để lấy tế bào (!). Vì nhân bản vô
tính người thể hiện tính vô luân đến mức trầm trọng nên hiện nay nó vẫn bị cấm
tại nhiều nước. Nhưng một số nhóm nghiên cứu, chẳng hạn như nhóm Antinori ở Ý,
đã tuyên bố rằng sẽ tạo ra con người bằng nhân bản vô tính tại những nơi không
bị luật pháp cấm, bất chấp sự nguyền rủa của dư luận.
Tại Úc, một
công ty stemcells đã bị phát giác làm thí nghiệm cấy tế bào người vào nhân
trứng lợn, và đã tạo ra một tế bào sống được 42 ngày. Thực ra tế bào này không
tự chết, mà đã bị giết chết, vì khi kiểm tra, các nhà nghiên cứu phát hiện thấy
“cơ thể” của nó chứa cả ADN của người lẫn ADN của lợn. Nếu để nguyên cho nó
sinh thành thì sẽ có một sinh vật mới ra đời, đó là một người-lợn hoặc
lợn-người, một “tác phẩm khoa học trứ danh” không có gì có thể so sánh được
(!). Ai dám khẳng định rằng hiện nay một bào thai quái vật như thế không ngấm
ngầm tồn tại trong một phòng thí nghiệm nào đó trên thế giới? Khi câu chuyện tế
bào người-lợn ở Australia bị báo chí đưa ra ánh sáng, xã hội Australia đã thật
sự rùng mình. Các em nhỏ đã lên tivi phát biểu rằng các em thấy sợ hãi. Tờ
Daily Telegraph đã lên án gay gắt việc làm bất lương này, nhưng sau đó không
nghe thấy ồn ào gì tiếp. Việc tầy trời như thế có vẻ như đã bị ỉm đi, không hề
thấy xét xử giống như bao nhiêu vụ tội phạm khác. Phải chăng đồng tiền đã thống
trị lương tri?
Thực ra
không cần phải đợi đến cuối thế kỷ 20 nhân loại mới giật mình nhận ra tính chất
vô đạo đức của nền văn hoá thực dụng vật chất. Ngay sau thảm hoạ nguyên tử 1945
đã xuất hiện rất nhiều cảnh báo của những nhân vật được coi là thông thái bậc
nhất:
Đó là cảnh
báo của Max Born, một nhà vật lý xuất sắc từng đoạt Giải Nobel vật lý năm 1954:
“Khoa học và kỹ thuật phá hoại nền tảng đạo đức của văn minh, và sự phá hoại
đó là vô phương cứu chữa”[11]!
Đó cũng là
cảnh báo của Jawaharlal Nerhu: “Con người về phương diện kỹ thuật đã vươn
tới những vì sao, nhưng lại không hề được trau dồi một tí gì về quan hệ giữa
người và người. Và chính vì lẽ đó mà nền văn hoá đạo đức xã hội tụt lại xa đằng
sau kỹ thuật”[12].
Đó chính là
lý do để “ông thánh khoa học” Albert Einstein cũng phải buồn rầu thốt lên rằng
trí tuệ chỉ có sức mạnh cơ bắp nhưng phi nhân tính.
Tại sao khoa
học “cơ bắp” được tôn sùng như chúa? Vì nó tạo ra của cải vật chất, tức là mang
lại tiền bạc và sức mạnh. Tại sao khoa học nhân văn ngày càng bị lép vế? Vì nó
lo chăm sóc phần hồn của con người, do đó không trực tiếp tạo ra tiền bạc và
sức mạnh “cơ bắp”. Một khi bị loá mắt trước tiền bạc, con người sẽ tôn sùng
cái làm ra tiền và khinh thường cái không làm ra tiền. Đó là lúc bản năng
vô thức – cái mà Sigmund Freud gọi là Eros và Thanatos – trỗi dạy một cách mạnh
mẽ, hối thúc con người chạy ùa theo cái thấp hèn. Đó là lúc con người hành động
thuần tuý như một sinh vật, cho dù là một sinh vật tiến hoá bậc nhất. Đây là một
bước thụt lùi nghiêm trọng của nền văn minh – một nền văn minh trong đó con
người tư tưởng của Pascal phải nhường chỗ cho con người sinh vật của Darwin.
Để kết phần
này, xin dẫn lời Lý Tường Hải, một nhà nghiên cứu Trung Quốc, trong một cuốn
sách của ông đã được dịch ra tiếng Việt gần đây: “Thế kỷ XX là thời đại nhân
loại thu được những thành tựu to lớn, đồng thời cũng là thời đại bộc lộ những
tệ hại của văn minh hiện đại. Một mặt, nhu cầu vật chất của nhân loại được thoả
mãn ở mức trước đây chưa từng có, mặt khác, tinh thần và tâm linh của nhân loại
lại bị tổn thương ở mức trước đây chưa từng có … Sự phân hoá lưỡng cực cao độ
đưa ra trước mắt mọi người một bức tranh về sự rất mất nhân đạo của nhân loại.
Sự phát triển cao độ của kỹ thuật … cũng thành ra một vũ khí sắc bén để nhân
loại tàn hại lẫn nhau … người ta vốn là đứa con của tự nhiên, giờ đây họ muốn
lấy trí thức và kỹ thuật làm chỗ tựa, hy vọng trở thành chủ nhân của tự nhiên.
Thế rồi họ làm những việc lay trời chuyển đất, tát đầm bắt cá, kết quả là phá
vỡ sự cân bằng sinh thái vốn có của giới tự nhiên, từ đó mà khiến nhân loại gặp
phải nguy cơ là mất đi chỗ dựa sinh tồn. Con người hiện đại sau khi thoát khỏi
gông cùm của “chủ nghĩa cấm dục” truyền thống, đi đến chỗ phóng túng không biết
đến kiêng kị là gì, cuối cùng đau đớn cảm thấy rằng cuộc sống chẳng còn gì đáng
gọi là hứng thú nữa. Ngoài ra bởi sự chủ tể của kỹ thuật đối với con người, tác
động vạn năng của đồng tiền, sự tha hoá nhân tính và sự lầm lẫn ngọn nguồn của
giá trị … không thể không khiến người ta đau đớn cảm thấy sự chìm lấp ý nghĩa
nhân sinh: Người ta ở đời, vội vã tất tả, cũng có không ít sự lạnh nhạt, phiền
muộn, hèn kém, dối trá, thống khổ, kinh hãi, vậy ý nghĩa rốt cuộc là ở đâu nhỉ?”.
3* Kết:
Cách đây đã
lâu, Đài truyền hình Việt Nam có lần chiếu một cuốn phim về tiểu sử bà Indira
Ghandi. Tôi có ấn tượng mạnh về một câu nói của bà: “Ngày nay, dường như
khoa học thì tiến lên, nhưng văn hoá thì thụt lùi”. Từ bấy đến nay tôi để ý
kiểm chứng điều bà nói, càng ngày tôi càng thấy bà đúng. Nhiều năm sau này tôi
mới được biết chính cố thủ tướng Jawaharlal Nehru, thân phụ của bà, cũng đã
từng nói điều đó với Albert Einstein khi hai vị gặp nhau. Trong câu chuyện với
Einstein, Nehru phàn nàn rằng nền văn minh Tây Phương chỉ bận tâm với việc sản
xuất ra máy móc, rất vô trách nhiệm với vấn đề luân lý đạo đức, Einstein đáp: “Chính
nền văn minh Đông Phương cổ truyền của các ông đã lo việc đó”.
Hình ảnh bà
Indhira trong phim trông buồn, đăm chiêu, tư lự. Cái buồn ấy truyền sang khán
giả, làm tôi nhớ đến câu hỏi lớn đã trở thành tựa đề cho tác phẩm văn học bất
hủ “Quo Vadis?” (Đi về đâu?) của nhà văn BaLan Henryk Sienkiewicz, người từng
đoạt Giải Nobel văn chương năm 1905. Câu hỏi ấy được “chiết xuất” từ một tích trong
Kinh Thánh: Trong lúc bối rối chạy loạn tránh khỏi sự khủng bố đàn áp của chính
quyền La Mã đối với những theo Đạo Kitô, thánh Peter bỗng thấy Chúa Jesus hiện
ra. Peter hỏi: “Con biết đi đâu bây giờ?”. Chúa phán: “Hãy đi về phía có ánh
sáng trên trời”.
Nhân loại
ngày nay cũng đang bối rối đặt câu hỏi: Nền văn minh hiện đại sẽ đưa loài người
đi về đâu?
Trong cuộc
hành trình đi tìm một nền văn minh đích thực, thiết nghĩ đã đến lúc phải bổ
sung vào hành trang của nhân loại hiện đại nền Minh triết Đông phương truyền
thống.
Hai nền văn
minh Đông – Tây dẫu rằng có những điểm trái ngược, nhưng không mâu thuẫn, mà bổ
sung cho nhau. Đó là vận dụng một nhận định của Niels Bohr, một nhà vật lý thiên
tài người Đan Mạch, khi ông diễn giải tinh thần của Nguyên Lý Bất Định trong Cơ
Học Lượng Tử dưới dạng gần giống như một nguyên lý kinh điển của Minh triết
Đông Phương: “Trái ngược không phải là mâu thuẫn, mà chúng bổ sung cho nhau”.
Viết đến
đây, tôi bỗng giật mình nghe thấy một lời thoại trong cuốn phim “The Ruins” (Đổ
nát) của Mỹ chiếu trên kênh truyền hình cáp HBO: “Cái ác nằm trong bản chất của
con người!”. Tôi không theo dõi cuốn phim từ đầu nên không rõ lời thoại đó muốn
nói gì, nhưng dù thế nào chăng nữa, tôi cảm thấy tác giả kịch bản muốn dùng
miệng các nhân vật để báo động cho chúng ta thấy rằng nhân loại đang đứng trước
nguy cơ khủng hoảng đạo lý. Điều này nhắc tôi nhớ lại tư tưởng của Khổng-Mạnh,
rằng “Nhân chi sơ tính bản Thiện”. Vậy Khổng-Mạnh đúng hay sai?
Tôi cho rằng
nếu chúng ta nhìn con người dưới góc độ của Học thuyết Darwin thì có lẽ
Khổng-Mạnh sai. Nhưng nếu nhìn con người dưới góc độ của Pascal – góc độ con
người tư tưởng – thì Khổng-Mạnh đúng.
Dường như
Darwin chỉ nhìn thấy con người dưới góc độ hình hài thể xác thô thiển mà không
thấy cái phần vô hình cao cả trong đó, trong khi Pascal mới thật sự hiểu được
giá trị của con người nằm trong tư tưởng.
Khi
Khổng-Mạnh nhấn mạnh tới bản chất Thiện, không phải các ngài không thấy thói hư
tật xấu của con người. Ngược lại, chính vì thấy thói hư tậtxấu làm hỏng con
người, làm rối loạn xã hội nên các ngài mới nhấn mạnh đến bản chất Thiện, để
dạy con người từ bỏ cái xấu và hướng tới cái Thiện, nhằm làm cho con người trở
nên NGƯỜI hơn, xã hội mới có thể tốt đẹp hơn.
Đó là một
phần trong những giá trị cao cả thuộc về TÂM của Minh triết Đông phương cổ
truyền. Có lẽ chính vì nhận thấy những giá trị cao cả đó có thể trở thành cứu
cánh đối với nền văn minh vật chất, nên các bậc thức giả Tây phương hiện đại đã
hướng tư duy chủ đạo vào Minh triết, như tác giả Nguyễn Khắc Mai loan báo trên
KH&TQ tháng 08-2009: “Sau những chối bỏ với nhiều triết thuyết, ngày nay
Minh triết đang là chủ đề chính trong tư duy đương đại”. Theo Nguyễn Khắc
Mai, đây là một trào lưu văn hoá mới đã hình thành từ 3-4 thập niên trở lại
đây, và là một “Trào lưu khai sáng lần thứ II”.
PVHg, Sydney 01 tháng 09 năm 2009
[1] Xem “Pythagoras’ Trousers”,
Margaret Wertheim, Fourth Estate, London, 1997, trang 17
[2] Grenville Kent hoàn thành luận
án tiến sĩ triết học và thần học tại Đại Học Manchester, sau đó là một giáo sư
triết học và thần học tại một số đại học ở Úc, kiêm đạo diễn điện ảnh và tác
giả của nhiều cuốn sách về triết học và thần học.
[3] Xem “Ideas that shaped our
world”, Robert Stewart, Marshall Editions, London 1997, trang 179.
[4] Xem tài liệu ghi chú (2) trang
bìa.
[5] SIGNS of The Times, tháng
10-1999. Pierre Curie (1859-1906): “I belong to the ones who follow Nobel in
wishing my discovery will never be used for purposes against humanity”.
[6] Francois Rabelais (1494-1553):
“Science sans conscience n’est que ruine de l’âme!”.
[7] SIGNS of The Times, tháng
10-1999: “The greatest dangers of science and technology may not be the risks
of environmental destruction, global warming, or nuclear, chemical or
biological weaponry, but the way in which its achievements feed our smug
self-sufficiency and arrogance, …”.
[8] Xem “Chương trình chế tạo bom
nguyên tử của Hitler” của Phạm Việt Hưng trên Khoa Học & Đời Sống từ số 51
ngày 27-06-2005 đến số 56 ngày 15-07-2005 và trên Vietsciences: http://vietsciences.free.fr/
hoặc trên PhamVietHung’s Home: http://viethungpham.wordpress.com/
[9] “Người đẹp tặng ta thuốc bùa
mê”, Vương Sóc, Bản dịch tiếng Việt của Vũ Công Hoan, NXB Văn Hoá Dân Tộc xuất
bản năm 2000.
[10]
Xem bài “Chuột có não người” trong “Những câu chuyện khoa học kỹ thuật hiện
đại”, Phạm Việt Hưng, NXB Trẻ năm 2003 Trang 239.
[11] Trích theo “Cảm nhận gia
đình” của Tương Lai trên Tia Sáng số 12/Tháng 7-2003.
[12] Trích theo “Cảm nhận gia
đình” của Tương Lai trên Tia Sáng số 12/Tháng 7-2003.
Đọc thêm:
TRỞ VỀ CỘI
NGUỒN MINH TRIẾT VIỆT
Mai Thục
Bài trên báo
Người Hànội 25.09.2009 08:53
Người Hànội:
Trung tâm nghiên cứu minh triết (Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt
Nam) với đề tài nghiên cứu “Minh triết trong tiến trình lịch sử văn hóa Việt
Nam- những vấn đề cơ bản”, bước đầu thu hút sự tham gia của các học giả trong,
ngoài nước.
Hội thảo lần
I – khẳng định nghiên cứu Minh triết trên thế giới đang phục hưng từ ba, bốn
thập niên gần đây. Hàng loạt trường Đại học Minh triết ra đời. Công trình đáng
giá nhất ở Mỹ đầu thế kỷ XX là bộ Thánh kinh Minh triết (Bible of Wisdom) tập
hợp những giá trị Minh triết Đông- Tây: Phật, Khổng Tử, Lão Tử, Thiền, Hy Lạp
cổ đại…(Nguyễn Khắc Mai).
Tìm về giá
trị Minh triết, nhất là Minh triết phương Đông, bởi con người bất an trước
những nghịch lý: kinh tế và khoa học càng phát triển, thì càng phá hoại, dẫn
đến hủy diệt môi trường sống tự nhiên của con người và vạn vật. Đạo lý làm
người mất dần. Trái đất và bầu khí quyển có ngày ra tro.
Tìm về Minh
triết là trở về với trí tuệ và đức hạnh của con người, biết sống hài hòa với
chính mình, với thiên nhiên và đồng loại, hài hòa giữa thân xác và tâm hồn,
biết nuôi dưỡng những phẩm chất tinh thần, tâm linh, gắn liền lời nói và việc
làm.
Minh triết
là đỉnh cao Tinh hoa nhân loại, đặc biệt của Phương Đông và nước Việt, trao
tặng muôn kiếp người, sống an lạc trong vũ trụ chuyển vần. Ngô Thời Sĩ quan
niệm Minh triết là đạo lý đời thường: “Đem đạo Thánh hiền để quở trách thói
đời, không bằng đem đạo đời thường để cảm hóa lòng người”.
Triết gia
Lương Kim Định (1914- 1997) xác định “Minh triết là đạo tức là con đường hướng
dẫn con người đến hạnh phúc”. Nền tảng của Minh triết là: Thái hòa, Nhân chủ,
Tâm linh.
Minh triết
Việt bao gồm những giá trị sống tươi đẹp, nảy nở từ vạn kiếp con người đã sinh
ra, ăn, ở, đi, về, suy nghĩ, học, sản xuất, sáng tạo văn hóa, thực hành tâm
linh… trong vùng địa lý, khí hậu, lịch sử riêng biệt, trên cánh đồng lúa nước.
Minh triết Việt tiếp thu Minh triết của những dân tộc khác, nhưng khi nó ăn
nhập vào sức sống của cư dân Việt, nó trở thành “Văn minh lúa nước” mà Minh
triết Việt là đỉnh chóp.
Giáo sư
Hoàng Ngọc Hiến (Chủ tịch Hội đồng khoa học đề tài nghiên cứu Minh triết Việt)
đã tóm gọn Minh triết Việt trong một câu: “Minh triết là biết làm thế nào để
sống hẳn hoi”.
Hoàng Ngọc
Hiến đã vạch hướng nghiên cứu lâu dài, với sự kết hợp nhiều tiếng nói, đa
ngành, đa phương, đa sắc tộc Việt Nam: “Không thể khác được, nghiên cứu Minh
triết ở Việt Nam bắt đầu bằng sự tổng kiểm kê và sưu tầm, bổ sung, những viên
ngọc quí của Minh triết hiện đang rải rác khắp nơi”.
Không dừng
lại về mặt học thuật, giáo sư Hoàng Ngọc Hiến khẳng định giá trị thực tiễn và
ứng dụng Minh triết Việt vào từng con người Việt Nam hôm nay và mai sau: “Đứng
trước cái vốn tinh thần to lớn này, như soi vào một tấm gương lớn và sáng,
người theo đạo Phật cũng như người theo đạo Thiên Chúa, người Ê đê Tây Nguyên
cũng như người Tày Đông Bắc, người Chăm cũng như người Thái… họ đều thấy mình
trong đó, sự góp phần của họ vào cái vốn trí tuệ và đạo đức chung của toàn dân
tộc. Vốn này là một cơ sở tinh thần quan trọng để thực hiện sự đoàn kết tôn
giáo, sự đoàn kết các dân tộc anh em, sự đoàn kết toàn dân, sĩ, nông, công,
thương trong và ngoài nước. Ngoài ra vốn Minh triết to lớn này mới có đủ sức
mạnh để gây ở chúng ta ý thức về Minh triết. Ý thức này khiến chúng ta nhạy cảm
hơn với Minh triết ở cuộc sống xung quanh và bản thân ta…”
Con đường
nghiên cứu đã mở. Những tiếng nói bốn phương tụ hội vang lên, gọi người Việt
Nam – Trở về cội nguồn Minh triết Việt (Hà Văn Thủy). Cội nguồn đó, do triết
gia Kim Định phát hiện: “Từ xa xưa, người Việt vẫn cảm nhận rằng mình là con
cháu của dân tộc Minh triết. Những hạt Minh triết luôn lấp lóa tỏa sáng trong
cuộc sống. Nhưng chưa ai biết nguồn cội Minh triết là gì. Cho đến nửa thế kỷ
trước, bằng quán tưởng, bằng giải mã những huyền thoại, truyền thuyết Việt,
triết gia thiên tài Kim Định đã đốn ngộ phát hiện cội nguồn Minh triết Việt.
Phát kiến lớn về văn hóa Việt của ông được đông đảo sinh viên Sài Gòn một thời
hoan hỉ, hưởng ứng”(Hà Văn Thủy).
Triết gia
lớn Lương Kim Định để lại hàng chục cuốn sách giá trị, giúp định hướng cho sự
phát triển của dân tộc và nhân loại trong kỷ nguyên mới như: Triết lý Đông-
Tây, Gốc rễ triết Việt, Thái bình minh triết, Hồn nước với lễ gia tiên, Khổng
Tử, Kinh Dịch, Trống đồng Đông Sơn… và một lời tiên tri: “Đạo mất trước, nước
mất sau.”
Bằng sự Minh
triết của chính mình, giáo sư Hoàng Ngọc Hiến đã cảm hóa những học giả “khó
tính” Việt Nam ở nước ngoài nghiên cứu Minh triết. Từ Vương quốc Anh, học giả
Vũ Khánh Thành- học trò xuất sắc của Kim Định, gửi tham luận: “Minh triết Việt
– định hướng cho việc phát triển đất nứớc” đã tổng hợp tư tưởng Kim Định và đề
xuất phục học Nho, học Phật, học Kinh Thánh để phục hồi đạo làm người: “Nhân
Trí Dũng của Nho – Bi Hỷ Xả của Phật- Tin cậy Mến của Thiên Chúa giáo, để thành
Người.”
Về giáo dục,
Vũ Khánh Thành mong mỗi học sinh học ba thứ tiếng (Việt, Anh, Hán) ở bậc tiểu
học; giáo dục Lễ gia tiên hay Đạo thờ ông bà; Tiên học lễ, hậu học văn…
Từ Sydney
học giả Phạm Việt Hưng về Hà Nội trả lời câu hỏi: Đâu là nền văn minh đích
thực?
Nền văn minh
đích thực phải là sự chắt lọc tổng hòa tinh túy của hai nền văn minh Đông và
Tây. Văn minh Đông phương cổ truyền thiên về Tâm (thông qua chiêm nghiệm, trực
giác). Văn minh Tây phương thiên về Vật (thông qua quan sát, đo đạc, chứng
minh).
Song thế kỷ
XX, Lý Tường Hải – nhà nghiên cứu Trung Quốc nhận định: “Sự phát triển cao độ
của kỹ thuật thành một công cụ sắc bén để nhân loại tàn hại lẫn nhau… người ta
vốn là đứa con của tự nhiên, giờ đây họ muốn lấy trí thức và kỹ thuật làm chỗ
dựa, hy vọng trở thành chủ nhân của tự nhiên. Họ làm những việc lay trời chuyển
đất, tát đầm bắt cá, kết quả là phá vỡ sự cân bằng sinh thái vốn có của giới tự
nhiên, khiến nhân loại gặp nguy cơ là mất đi chỗ dựa sinh tồn. Con người hiện
đại sau khi thoát khỏi gông cùm của “chủ nghĩa cấm dục” truyền thống, đi đến
chỗ phóng túng không biết kiêng kỵ là gì, cuối cùng đau đớn cảm thấy rằng cuộc
sống chẳng có gì đáng gọi là hứng thú nữa. Ngoài ra, bởi sự chủ tể của kỹ thuật
đối với con người, tác động vạn năng của đồng tiền, sự tha hóa nhân tính và sự
lầm lẫn ngọn nguồn giá trị… không thể không khiến người ta đau đớn cảm thấy sự
chìm lấp ý nghĩa nhân sinh”.
Phạm Việt
Hưng đưa ra hàng loạt câu chuyện về mặt trái của tấm huân chương khoa học. Tại
Úc, một công ty bị phát giác làm thí nghiệm cấy tế bào người vào nhân trứng lợn
và tạo ra một sinh thể sống được 42 ngày. Thực ra nó bị giết chết vì các nhà
nghiên cứu nhận thấy “cơ thể” của nó chứa cả AND của người và AND của lợn. Một
tác phẩm khoa học trứ danh, sinh ra một sinh vật lợn – người hoặc người- lợn.
Đó là lý do để Albert Enistein buồn rầu thốt lên: “Hãy thận trọng đừng biến trí
tuệ thành chúa của chúng ta; nó có sức mạnh cơ bắp, nhưng phi nhân tính”.
Vậy mà ngày
nay, người Việt Nam tất tưởi, vội vã chạy theo Tây phương, phá cánh đồng lúa
trĩu hạt mùa vàng làm sân gôn, dự án, đầu tư nước ngoài, nhà xưởng, công nghiệp
hóa, thải độc xuống những dòng sông xanh mát trưa hè, bê- tông hóa nền văn minh
lúa nước… đánh mất ánh sáng Minh triết phương Đông cổ truyền của chính mình,
nên gặp quá nhiều bất ổn trong đời sống của mọi người, mọi chốn, mọi nơi, từ
đồng quê đến thị thành…
Đau đớn
thay! Song chúng ta theo Minh triết Ngô Thời Sĩ. Không quở trách thói đời. Mà
cùng nhau gọi người Việt “Trở về cội nguồn Minh triết Việt” do Kim Định phát
hiện với những đặc trưng:
1.
Người Việt quan niệm về một vũ trụ “tham thiên lưỡng
địa” có
nghĩa là vũ trụ vận hành đi lên với ba phần Dương và hai phần Âm. Đấy là sự
phát triển tích cực nhưng cân đối, nay gọi là phát triển bền vững. Nếu để Dương
cực thịnh, Âm cực suy, phát triển quá nóng sẽ hủy diệt trái đất.
2. Từ trong
bộn bề văn hóa phương Đông với Khổng Nho
Hán Nho,
Tống Nho… Kim Định tìm ra Việt Nho là nền văn hóa hoang sơ của người Việt, mà
ông gọi là Nguyên Nho với nội dung: Nhân chủ, Thái hòa, Tâm linh. Việt Nho quan
niệm trong tam tài Thiên- Địa- Nhân thì con người là chủ. Trong vị trí chủ
nhân, con người phải sống thái hòa với nhau và với thiên nhiên. Con người không
chỉ là thể xác vật chất mà còn sống trong tâm linh, trong tương quan với thế
giới siêu nhiên khác.
3. Để được
như trên, con người phải sống trong Đạo Việt An vi. Không hữu vi duy vật tranh
giành chiếm đoạt. Không vô vi lánh đời, mà sống tích cực, tận tâm tận lực làm
việc cho mục đích hướng thiện, theo lẽ an nhiên, an hòa của lòng mình hợp với
sự vận hành của vũ trụ.
4. Sự tồn
tại của xã hội dựa trên cơ sở bình sản.
Những hạt
nhân Minh triết Việt tồn tại trong tầng sâu văn hóa Việt, tỏa năng lượng nuôi
sức sống Việt hàng vạn năm nay, lẽ nào chúng ta lại không tiếp nhận để cứu
chính mình và dân tộc thoát khỏi sự mất Đạo. “Mất Đạo trước, mất nước sau” (Kim
Định)
Mỗi người
dân Việt cần Minh triết Việt để sống làm người. Thế giới càng hỗn loạn, con
người càng cần Minh triết. Minh triết bảo thân. Tiến sĩ Lloyd Bruce khẳng định
“Những người lãnh đạo (điều hành vi mô và vĩ mô) nếu không biết Minh triết và
ứng dụng Minh triết sẽ phải trả giá đắt cho sự vô tâm của mình.”