Sáng tác của François Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ và Phục hưng
Mikhail Mikhailovich Bakhtin
Sáng tác của François Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ và Phục hưng
LỜI NGƯỜI DỊCH
Công trình chuyên khảo về Rabelais của Bakhtin cơ bản được hoàn thành trước năm 1940, nhưng mãi đến năm 1965 mới được xuất bản dưới nhan đề “Sáng tác của François Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ và Phục hưng”. Ngoài cuốn sách riêng này, Bakhtin còn dành gần nửa công trình “Những hình thức thời gian và thời-không gian trong tiểu thuyết” để khảo cứu chuyên sâu cấu trúc không gian và thời gian của các hình tượng Rabelais và quan hệ giữa chúng với các kiểu cấu trúc hình tượng trong văn học dân gian. Trong công trình chúng tôi giới thiệu, Bakhtin đã giải quyết xuất sắc các vấn đề chính: lột tả đặc trưng thẩm mỹ của tiếng cười Rabelais, phân tích ý nghĩa mỹ học và triết học của tiếng cười hội hè dân gian và làm sáng tỏ mối quan hệ giữa tiếng cười ấy với nền văn hóa dân gian Trung cổ và Phục hưng.
Bakhtin là người đầu tiên đã cắt nghĩa đúng, "giải mã" một cách căn cốt cái "tục" trong văn hoá hài dân gian, do đó ông đã lý giải được Rabelais, một nhà văn được coi là "thô tục" nổi tiếng. Cái "tục" với hàm nghĩa "thanh" rất sâu rộng ấy đến nay vẫn sống lâu bền trong văn hoá dân gian và nuôi dưỡng văn học hiện đại.
Dịch Bakhtin nói chung rất khó. Tác giả là một nhà bác học uyên thâm, công trình đề cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau từ triết học, sử học, mỹ học đến tôn giáo, văn học, nghệ thuật… từ cổ đại đến hiện đại. Cũng như những người mở đường trong khoa học, ông đã sáng tạo riêng cho mình một hệ thống thuật ngữ dựa trên các thứ tiếng châu Âu hoặc cấu tạo những khái niệm mới chưa từng có trong tiếng Nga. Do vậy, bản dịch này chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, người dịch rất mong nhận được ý kiến đóng góp chân thành của độc giả để hoàn thiện cho lần tái bản sau.
Được sự đồng ý của PGS. TS. Phạm Vĩnh Cư, chúng tôi xin in lại chương Dẫn luận cho công trình này, đã được PGS. TS. dịch và in trong cuốn Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Bộ Văn hoá Thông tin và Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội, 1992) bởi thiếu nó, chúng ta không thể hình dung trọn vẹn tác phẩm của Bakhtin.
Xin vô cùng cảm ơn PGS. TS. Phạm Vĩnh Cư đã động viên và góp ý để bản dịch này được hoàn thành, cám ơn TS. Hoàng Ngọc Hiến đã dành thời gian hiệu đính cho bản dịch. Xin chân thành cám ơn PGS. TS. Nguyễn Chí Bền và Viện Văn hoá Thông tin đã tạo điều kiện để cuốn sách được xuất bản. Cám ơn chị Bạch Ly Nhà xuất bản Khoa học Xã hội đã giúp đỡ biên tập để bản thảo sớm được ra mắt độc giả.
Hà Nội, tháng 6 năm 2006
TS. Từ Thị Loan
ĐÔI LỜI VỀ BAKHTIN
Mikhail Mikhailovich Bakhtin (1895 - 1975) là nhà khoa học nhân văn và lý luận phê bình văn học lỗi lạc của thế kỷ XX. Tên tuổi và sự nghiệp của ông đã vượt biên giới nước Nga đến với giới nghiên cứu khoa học và công chúng trí thức trên toàn thế giới. Mặc dù phần lớn được viết từ những năm 20 - 40 của thế kỷ XX, các công trình của ông đến nay vẫn giữ nguyên giá trị cách tân: chúng đặt ra cho khoa học một loạt vấn đề hệ trọng, cung cấp những phương pháp luận, cách tiếp cận mới đầy hiệu năng, kích thích tinh thần sáng tạo, sự nhận thức và nhận thức lại không ngừng trong khoa học. Mỗi lần những công trình khảo cứu về văn học, ngôn ngữ học, mỹ học, văn hoá học… của Bakhtin, nhờ những nỗ lực phi thường của các học trò ông đến được với bạn đọc, chúng đều làm chấn động dư luận khoa học trong và ngoài nước, gây nên những cuộc tranh luận làm sôi động đời sống tinh thần không chỉ riêng ở Liên Xô.
Bakhtin sinh trưởng trong một gia đình quí tộc dòng dõi, từng cống hiến cho nước Nga một số danh nhân văn hoá và nhân vật lịch sử, nhưng đến thời Bakhtin thì đã phần nào sa sút. Tuy vậy ông vẫn được hưởng một nền giáo dục tinh hoa, để lại dấu ấn không phai mờ lên toàn bộ nhân cách và sáng tác của ông sau này. Tốt nghiệp khoa lịch sử - ngữ văn Trường đại học tổng hợp Sankt-Peterburg năm 1918, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười ông không đi lưu vong như nhiều trí thức khác mà chọn con đường ở lại với đất nước. Ông về dạy học ở Vitebsk, một thành phố nhỏ miền Tây nước Nga trong những năm nội chiến (1918-1922) và bắt đầu tập hợp quanh mình một nhóm trí thức gồm các bạn bè và học trò cùng chí hướng, viết một loạt sách và bài nghiên cứu thể hiện những kiến thức uyên thâm và tư tưởng khoa học cách tân. Có ít nhất ba công trình lớn được công bố vào những năm 1920, được xác nhận là của Bakhtin, nhưng lại mang tên các học giả thuộc nhóm ông là: Học thuyết Freud (ký tên V.N.Volosinov); Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học (ký tên P.N. Medvedev) và Chủ nghĩa Mác và triết học ngôn ngữ (ký tên V.N.Volosinov).
Ngày nay cả ba công trình đều được dịch ra nhiều thứ tiếng, được công luận khoa học thế giới đánh giá cao như những thành tựu khởi sắc, đánh dấu những bước đi ban đầu nhưng vững chắc và đầy sáng tạo của nền triết học mácxít non trẻ trong ba lĩnh vực trọng yếu của khoa học nhân văn: tâm lí học, nghiên cứu văn học và ngôn ngữ học. Nhưng một điều oan nghiệt sau này đã đến với những người bạn và học trò cho ông mượn tên và cả một vài nhà khoa học khác trong "nhóm Bakhtin": họ đều bị trấn áp và đã chết ở nơi tù đầy và hai ba chục năm sau mới được minh oan. Phải chăng vì thế, sau này, khi đã nổi danh toàn cầu, Bakhtin không từ chối nhưng cũng không bao giờ khẳng định tư cách tác giả của mình đối với ba tác phẩm xuất sắc thời thanh niên đó.
Viết nhiều và hoạt động khoa học sôi nổi, nhưng mãi đến năm 1929 Bakhtin mới cho in cuốn sách đầu tiên mang tên mình - Những vấn đề về sáng tác của Dostoevski. Cuốn sách vừa in xong, thì Bakhtin, do tham gia một nhóm trí thức nghiên cứu lịch sử tôn giáo, bị kết án phạm tội chính trị và tuyên phạt 10 năm tù khổ sai. (Năm 1966 tòa án tối cao CHLB Nga đã xét lại vụ án này và phục hồi danh dự cho tất cả những người bị kết tội). Từ nhỏ ông đã bị sơ nhiễm bại liệt và sức khoẻ rất kém, 10 năm khổ sai chắc chắn sẽ là cái chết đối với ông. Vợ ông và bạn bè đã tận dụng mọi quan hệ xã hội để xin giảm án cho ông, và cuối cùng 10 năm tù khổ sai được thay bằng 5 năm lưu đầy ở vùng bắc Cazakhstan. Tại đây, do khí hậu quá khắc nghiệt và cuộc sống quá gian khổ, bệnh bại liệt đã tái phát. Để cứu tính mạng, Bakhtin phải tháo khớp toàn bộ chân phải.
Hết hạn lưu đầy, Bakhtin trở về Mátxcơva. Trong vòng 5 năm ông đã viết một loạt công trình về thể loại tiểu thuyết và hoàn thành cơ bản chuyên khảo về Rabelais. Chiến tranh chống phát xít Đức bùng nổ, Bakhtin phải rời thủ đô và 5 năm liền dạy ngoại ngữ ở một trường phổ thông tại một vùng nông thôn Trung Nga hẻo lánh. Năm 1947, ông trở lại Mátxcơva bảo vệ công trình về Rabelais và được phong học vị… phó tiến sĩ. Nhờ học vị tối thiểu này mà ông được nhận làm giảng viên trong biên chế của trường đại học sư phạm Saransk, thủ phủ nước cộng hoà tự trị Mordva thuộc Liên bang Nga.
Giai đoạn Saransk trong tiểu sử Bakhtin kéo dài hơn 20 năm, cho đến những năm 60 tên tuổi Bakhtin hoàn toàn bị quên lãng ở Liên Xô. Đến cuối năm 1963, nhờ bức thư ngỏ thống thiết của một nhóm nhà văn và nhà khoa học nổi tiếng, cuốn sách Những vấn đề của thi pháp Dostoevski của ông mới được xuất bản, sau đó hai năm, công trình Sáng tác của Franỗois Rabelais và nền văn hoá dân gian trung cổ và Phục hưng được ra mắt độc giả. Tên tuổi Bakhtin mau chóng trở nên lừng lẫy, thậm chí thời thượng ở Liên Xô, rồi cả trên trường quốc tế. Nhưng vinh quang tinh thần không đủ sức làm thay đổi số phận ông: ông và vợ vẫn sống ở Saransk hẻo lánh cho đến khi bà qua đời năm 1970. Không còn ai chăm sóc Bakhtin nữa, nên các học trò và những người hâm mộ tài năng của ông một lần nữa lại vận động để cuối cùng thu xếp được cho ông vào nhà sáng tác của Hội Nhà văn Liên Xô ở Peredelkino, nơi ông mất năm 1975. Lễ tang của ông được tổ chức lặng lẽ, đơn giản theo đúng di chúc của người quá cố. Tượng đài bất hủ cuối cùng mà Bakhtin dựng cho mình là cuốn sách Những vấn đề của văn học và mỹ học, in khi ông đã qua đời, gồm những công trình nghiên cứu tích luỹ gần nửa thế kỷ, hầu hết chưa bao giờ được công bố.
Các tiểu luận, bài viết và những di cảo khác của Bakhtin tiếp tục được thu thập và xuất bản sau khi ông mất, trong đó đáng kể nhất là các cuốn Mỹ học của sáng tạo ngôn từ (1979), Triết học hành động (1984), Các bài phê bình văn học (1986), Bổ sung và sửa đổi cho “Rabelais” (1992), Thư từ của M.M. Bakhtin (1992), Những công trình qua năm tháng (1995), Đàm thoại với V.D. Duvakin (2002)…
Trong vũ trụ mênh mông của văn học và văn hoá thế giới, nơi Bakhtin đã sống như sống trong ngôi nhà mình, ông chọn cho mình hai đồng hành, hai người đối thoại chính: Dostoevski và Rabelais. Hai văn hào khác nhau như lửa với nước ấy đều thiết yếu đối với Bakhtin, bởi thế giới nghệ thuật của họ thể hiện tập trung hai cực giá trị quan trọng ngang nhau trong triết học nhân bản, trong lý tưởng nhân văn của ông: giá trị của cá nhân, của Bản Ngã và giá trị của quần chúng nhân dân, của Cộng Đồng. Khi con người chưa là cá nhân, chưa là Bản Ngã, nó có Cộng Đồng với vô vàn giá trị siêu cá nhân của đời sống cộng đồng. Khi con người đã trở thành cá nhân, trở thành Bản Ngã, nó đánh mất đời sống cộng đồng, những giá trị siêu cá nhân bị mai một, mà thiếu những giá trị siêu cá nhân, cá nhân tồn tại một cách què quặt. Hai cuốn sách chính của Rabelais, một cuốn về Dostoevski, một cuốn về Rabelais cho ta thấy ở Bakhtin hai mối bận tâm lớn, hai hướng tìm tòi, khẳng định chứng tỏ ông đúng là con người của thời đại chúng ta. Nếu bằng cuốn sách về Dostoevski, Bakhtin góp tiếng nói khẳng định (trước tiên trước đồng bào của Dostoevski) giá trị độc lập, tự thân, cao quí nhất, không gì thay thế được của cá nhân, của Bản Ngã, thì bằng công trình về Rabelais ông nhắc nhở (trước tiên cho đồng bào của Rabelais) về những giá trị siêu cá nhân cũng không thể thay thế được của nhân quần, của cuộc sống Cộng Đồng. Sức vang vọng sâu rộng và trường cửu, vượt xa ra ngoài lĩnh vực nghiên cứu - phê bình văn học của hai cuốn sách của Bakhtin về Dostoevski và Rabelais chính là ở chỗ ông đã biết khẳng định với tư cách một nhà khoa học, một triết gia và một nghệ sĩ ngôn từ đại tài cả hai giá trị phổ biến và vĩnh hằng ấy. Và "thông điệp" của Bakhtin đã được cảm nhận, được nghe thấy ở nhiều nước, nhiều giới độc giả khác nhau trên thế giới.
Chuyên khảo Sáng tác của Franỗois Rabelais và nền văn hoá dân gian Trung cổ và Phục hưng từ lâu đã được công luận thế giới thừa nhận không chỉ như một sự kiện lớn trong lịch sử nghiên cứu và kiến giải Rabelais, mà còn như một công trình kiệt xuất về lý luận và triết học văn hoá nhân loại. Nó đưa ra luận thuyết về kiểu hình tượng nghịch dị (grotesque) đặc trưng không riêng cho Rabelais, mà còn cho tất cả các tác phẩm văn nghệ trào tiếu gắn với văn hoá dân gian. Cơ sở thẩm mỹ mang tính thế giới quan của kiểu hình tượng ấy được Bakhtin nhìn thấy trong tiếng cười hội hè, đặc biệt trong tiếng cười hội giả trang carnaval. Sau 30 năm ra mắt độc giả, các luận điểm khoa học của công trình vẫn tiếp tục được giới khoa học thảo luận, bàn bạc, minh xác, bổ sung.
Người Pháp đến nay vẫn chưa hết ngạc nhiên vì sao sau bốn thế kỷ đọc, nghiên cứu, bình giải Rabelais, một người ngoại tộc như Bakhtin lại nói về thiên tài của họ trúng hơn, sâu sắc hơn hẳn những gì họ đã nói, đã giúp họ phát hiện lại Rabelais, "giải mã" Rabelais. Tiểu thuyết "Gargantua và Pantagruel" của Rabelais xưa nay vẫn được coi là tuyệt tác, nhưng thực ra rất hóc búa và kỳ dị. Bakhtin đã nhận thấy trong tiếng cười hoan hỉ, rền như pháo đùng, tiếng cười nghịch ngợm, bất kính, nhiều khi bất nhã ấy tín hiệu đích thực về một tâm thế ung dung, bình thản, tự tin, không run sợ trước bất cứ cái gì cao siêu, tôn kính. Tiếng cười giải phóng con người khỏi nỗi sợ hãi trước thế giới tự nhiên và xã hội với bao thế lực, quyền uy đang đè bẹp nó và bắt nó phải kính sợ, tạo nên thái độ tỉnh táo, quả cảm, không biết sợ, mà thái độ ấy là tiền đề cho mọi cuộc cách mạng, mọi bước nhảy vọt thực thụ trong đời sống xã hội. Ở châu Âu, những thay đổi có tính chất cách mạng trong mọi lĩnh vực của đời sống tinh thần thời Phục hưng đã được chuẩn bị bằng sự bùng nổ tiếng cười trong nền văn hoá dân gian. Các nhà văn hoá theo chủ nghĩa nhân văn thời ấy, mà đại diện tiêu biểu là Rabelais, nhạy cảm với nhu cầu giải phóng con người, đã tiếp thụ tiếng cười dân gian, học tập và "cải biên" ngôn ngữ của nó thành công cụ sắc bén để đánh đổ thế giới quan trung cổ, xây dựng những quan niệm mới về thế giới, thực hiện cuộc cách mạng tư tưởng mở đầu cho thời đại mới trong lịch sử.
Những quan điểm, phương pháp kiến giải Rabelais của Bakhtin, nếu được vận dụng sáng tạo, sẽ có năng lực giúp chúng ta cắt nghĩa một loạt hiện tượng kỳ thú ngay trong văn học dân gian và thành văn của nước ta, tức là mảng văn chương trào phúng cổ mà mọi con người Việt Nam xưa nay vẫn rất tán thưởng, thuộc nằm lòng, nhiều khi tấm tắc ngợi khen, nhưng chỉ dám “nói nhỏ”, bởi nói to sẽ bị chê ngay là "tục tĩu", "thô bỉ". Nhưng các nhà nghiên cứu ở các nước khác đã đi xa hơn thế nhiều. Vận dụng Bakhtin, họ đã "giải mã" thành công cả những tác phẩm tiểu thuyết đồ sộ và hết sức phức tạp trong văn học thế giới thế kỷ XX như Ulysse của nhà văn Anh gốc Irlandie F. Joyce, Nghệ nhân và Margarita của nhà văn Nga M.Bulgacov, Trăm năm cô đơn của nhà văn Mỹ - Latinh G. Marquez, v.v…
Trong khi đánh giá cao một số thành tựu của những trường phái nghiên cứu hiện đại như "phương pháp hình thức" ở Nga, cấu trúc học, kí hiệu học ở phương Tây, Bakhtin luôn đồng thời phản đối khuynh hướng "phi nhân hoá" khoa học về con người, sự du nhập máy móc các phương pháp, tiêu chí của khoa học tự nhiên, khoa học chính xác vào khoa học nhân văn, khoa học xã hội. Nét độc đáo tạo nên cái "duyên" riêng ở Bakhtin chính là sự kết hợp nhuần nhụy tư duy khoa học hiện đại luôn hướng về cái mới với cốt cách nho nhã của một kẻ sĩ gắn bó máu thịt với truyền thống văn hoá nhân văn cổ điển. Các công trình khoa học của ông rất giàu tính triết luận, chúng luôn hướng tới những chân lý cuối cùng về thế giới và con người, hàm chứa nhiều ý niệm, tư tưởng cao sâu được tác giả hun đúc trong suốt cuộc đời và trả giá bằng chính cuộc đời mình.
Tất cả những đặc điểm ấy đã tạo nên cho Bakhtin một vị trí hiếm có trong làng danh nhân văn hoá thế giới thế kỷ XX. Uy tín khoa học của Bakhtin hiện nay rất lớn, di sản của ông cần thiết và hữu ích cho nhiều bộ môn, trường phái khoa học nhân văn khác nhau. Các công trình của ông đã và đang có ảnh hưởng trực tiếp đến sáng tác của nhiều nhà văn hiện đại ở nhiều khu vực trên thế giới, từ châu Mỹ Latinh đến Á Đông.
PGS. TS. Phạm Vĩnh Cư
Nguồn: https://nguyenducmau.blogspot.com/2011/12/sang-tac-cua-francois-rabelais-va-nen.html